(Thứ bảy, 23/11/2019, 02:34 GMT+7)

BÀI THƠ LỤC BÁT
VỀ HỮU TƯỚNG QUÂN PHÙNG THANH HÒA

 

   Lời Ban biên tập: Trong chuyến đi điền dã về đình làng Phùng Xá, Thạch Thất, Hà Nội; Các nhà nghiên cứu đã được thầy giáo Phùng Khắc Việt Hùng - một trong những hậu duệ của Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan đã giới thiệu rất phong phú về Thần Thành hoàng làng Phùng Xá gồm hai vị Hữu tướng quân Phùng Thanh Hòa và Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Ông cũng đã viết một tham luận về Phùng Thanh Hòa rất công phu, đặc biệt đã sưu tầm và hiệu đính bài thơ lục bát viết về thần tích Phùng Thanh Hòa lưu ở Đền Hùng do cụ Phùng Tinh Tinh soạn năm 1925 đã được các nhà nghiên cứu Hán Nôm dịch sang chữ quốc chữ. Sau đây xin giới thiệu bài thơ.
 


Đoàn nghiên cứu đi điền dã chuẩn bị Hội thảo Khoa học TRẠNG VẬT PHÙNG THANH HÒA - THÂN THẾ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP tại Đình Phùng Xá - Thạch Thất - Hà Nội (thầy giáo Phùng Khắc Việt Hùng đeo kính ngồi giữa bên trái)

 
   *Bài thơ lục bát do cụ Phùng Tinh Tinh soạn(sau khi sưu tầm được Thần tích Ngài Phùng Thanh Hòa, lưu ở Đền Hùng năm 1925):
 
Nam Giao vững một phương trời
Vua Lý Nam Đế lên ngôi trị vì
Bốn phương phẳng lặng như tờ
Dân an, quốc thái, thơ ca huy hoàng
 
Tiếng đồn lừng quận Nam Xương
Phong cảnh xinh đẹp, có làng Hồng Vinh
Thực là đất tốt, nước bình
Làm nhân, ở thiện, trời sinh một nhà
 
Phùng công, Hoàng thị - ông bà
Đêm ngày cầu khấn vua cha Ngọc Hoàng
Ba sinh, hương hỏa lạ thường
Phong lưu rất mực, vẻ vang cõi trần
 
Tháng giêng, ngày sáu, năm Thân
Đêm nằm, Hoàng thị tâm thần chợt mơ
Tự nhiên sáng tỏ đầy nhà
Rồi sau lại thấy bạch sà quanh co
                                        
Hóa hoa sen trắng một giò
Hoàng thị bẻ lấy, giấc hồ tỉnh ngay                                      
Đầu đuôi kể Phùng công hay
Ông bà mừng rỡ, vui vầy khôn đương
                           
Bấy giờ chung gối uyên ương
Rồng mây gặp hội, phượng loan sánh bầy
Hoàng thị chợt có thai ngay
Mười một tháng một, tới ngày chuyển thai
 
Đúng kỳ giữa ngày mười hai
Sinh ra được Ngài, nhà rất mừng vui                         
Thanh Hòa, tên đặt hẳn hoi
Sinh ra vốn có thiên tài quá nhân
                              
Thông minh, trí tuệ Thánh Thần
Riêng nhà, đọc viết - chẳng cần hỏi ai                     
Nghề chơi đàn sáo cũng tài
Tám âm, năm luật - chẳng sai điều gì
                            
Lớn khôn biết cả binh thư
Cung tên bắn giỏi, các nghề võ hay                             
Lý triều gặp vận chẳng may
Bá Tiên, binh mã định bài lai xâm
                                   
Đầy trời gươm giáo ầm ầm
Cờ bay rợp đất, tối tăm cõi mình                                        
Đóng đồn ở đất Gia Ninh
Nhà Lương, ý muốn tung hoành nước Nam
                          
Vua Lý Đế lấy làm lo sợ
Họp triều đình, hội cả trăm quan                                  
Phán truyền thiết lập một đàn
Bái yết thiên địa, xuyên sơn thần kỳ
                          
CầuTiên, cầu Phật một khi
Trăm quan tấu quỳ, dã thiết kính dâng                         
Đương đêm trời tối như bưng
Lâu đài - bốn vách sáng bừng, lóe ra
                      
Bỗng đâu, thấy một cụ già
Cưỡi mây, bay xuống như là Tiên ông                         
Miệng cười, lưỡi đỏ hồng hồng
Đầu đội mũ Phật, người trông khác thường
 
Lưng đeo đai ngọc rõ ràng
Chân đi giày khách, cờ vàng cầm tay
Nói cười, tay múa, chân “giày”
Ai ai trông thấy mừng hay lạ lùng
                                
Trăm quan quỳ trước bệ rồng
Muôn tâu cửu trùng “Trần lại thấy Tiên”
Lý hoàng thân đón vào liền
Tỉ tê hỏi hết u huyền nông sâu
                                        
Rằng nay có quân bên Tàu
Đem quân xâm lấn, chước hầu làm sao?                            
Được thua, thua được thế nào
Tiên ông chỉ bảo tiêu hao gót đầu
                           
Tiên ông ngồi nghĩ giờ lâu
Phán truyền, dặn kỹ trước sau mấy nhời                            
Ta sinh ở Hoàng đế thời
Theo học Nho đạo, vui chơi chẳng già
                             
Làng Tiên ngày tháng lân la
Niết Bàn học Phật Thích Ca tu trì                                    
Ngày nay Vua đã thành kỳ (cầu)
Lão gieo một quẻ tính này cho coi
                           
Giặc này chẳng đánh cũng lui
Tìm được tướng tài, tan giặc như chơi                       
Nói xong, đạp gió về trời
Vua trông thấy rõ mười mươi Thiên Thần
                        
Tiên ông khuyên dặn ân cần
Cúi đầu, Vua tạ mười phần phân minh                                                 
Lệnh truyền cho Sá khởi trình
Sá đi khắp hết trong Kinh, ngoài Thành
                           
Sá tìm đến trại Hồng Vinh
Sá nghe Thánh nói thấu tình, mừng vui                              
Đại vương bảo Sá mấy lời
Mệnh trời đã đổi, ta nay đã đồ
                                               
Sá về trước, kíp tâu Vua
Ta luyện binh, tướng; tập cờ tiếp sau                                
Sá vâng lời, vội ruổi mau
Khi Ngài đến, Vua đã vào Tân Xương
                                
Trời thu hiu hắt lá vàng
Mười một tháng tám, Đại vương khởi trình                           
Rồi cùng Vua kéo đại binh
Đến hồ Điển Triệt kiến doanh vững vàng
                  
Thuyền tàu, buồng lái sửa sang
Đầy hồ san sát như hàng lá tre                           
Giặc Lương trông thấy sợ e
Vua lui quân về giữ động Khuất Liêu
                          
Quân, quyền hai tường liệu điều
Tả - Triệu Quang Phục, Hữu giao cho Phùng
Hai quân vâng lệnh oai hùng
Thao trường trống giục để phòng Bá Tiên
 
Hai quân vâng lệnh vừa yên
Vua Lý chợt đã tấn thiên, băng hà
Triệu Quang Phục kéo về Dạ Trạch
Tự xưng vương, nối chức Lý Hoàng
 
Phùng vương trở lại quý trang
Dân làng, bô lão đón mừng, vui thay
Đại vương dụ, phụ lão hay
Rằng nay Thánh thể an bài Khuất Liêu
 
Đạo tôi phải nghĩ kế nào
Trước là yên Nước, rồi sau yên nhà
Nói xong tất giã các già
Ban tiền, ban yến, thết quà phân minh
 
Tiệc xong, Ngài lại kéo binh
Đến đầm Dạ Trạch, vào thành Triệu Vương
Thành tâm thiết một đàn tràng
Bái yết thiên địa, thập phương chư thần
 
Bỗng đâu thấy áng hoàng vân
Ông Chử Đồng Tử xuống trần hẳn hoi
Rồng vàng ông cưỡi thảnh thơi
Thết ngay cái móng cho Ngài Triệu Vương
 
Dặn rằng chớ có coi thường
Dùng làm lẫy nỏ phòng đương giặc Tàu
Trăm năm giữ nước về sau
Đánh giặc đã có đầu mâu móng rồng
 
Xét xem vận mệnh Ngài Phùng
Thiên đình vốn đã tiệm chung đó rồi
Sẽ phong thực ấp một nơi
Hưởng thần có chốn đời đời tốt tươi
 
 Nói xong, cưỡi rồng lên trời
Phùng, Triệu - hai Ngài thì tới hai phương
Bao nhiêu quân sĩ Phùng Vương
Phó cho Vua Triệu liệu đường lập công
 
Hai vua từ tạ, thủy chung
Triệu về Dạ Trạch, chống cùng Bá Tiên
Phùng Vương du ngoạn các miền
Già già, trẻ trẻ đều xin lế mừng
 
Đại vương ban yến tưng bừng
Cho tiền tạu ruộng kể chừng giá đa
Một hôm Ngài đến quê ta
Trang trại nguyên trước gọi là An Hoa
 
Bấy giờ phụ lão dân nhà
Hương án lễ vật mang ra mừng Ngài
Cả dân xin làm con nuôi
Cầu Ngài phù hộ cho người an ninh
 
Đại vương nghe nói thuận tình
Lại cho tiền bạc để dành cầu, cung
Về sau hương lửa vô cùng
Ơn Ngài, mới đổi “ làng Phùng” từ đây
 
Đại vương nghỉ chơi vài ngày
Thiên văn, địa lý xét ngay, tinh tường
Đất làng có một Quý đường
Trước án, sau trẩm, giữa gương tốn càn
                              
Đôi bên ngọn nước giao liên
Dặn dân làm miếu, ức niên thờ Ngài                               
Bấy giờ Ngài hóa, chầu trời
Giữa rằm tháng tám là ngày lên Tiên
                                 
Dân làng hỏi được căn nguyên
Chép làm Thần tích, lưu truyền về sau
Đến năm Vĩnh Hựu - Lê triều
Hiển linh giúp nước được nhiều đại công
 
“Hồi Tâm Thượng sĩ” sắc phong
Ban cho làng Phùng thờ phụng ức niên
Sinh tiền đã dục phù bản xã
Thác, hóa rồi - ủng hộ lê dân
                                   
Thực Ngài nại Thánh, nại Thần
Lòng thành phụng sự, quỷ thần chứng cho
Tích Thần, chép toàn chữ nho
Sợ khó khăn dò, nên diễn quốc âm
                      
Trước biết chữ húy, khỏi nhầm
Sau biết tiệc lệ, biên - năm mấy lần                     
Tháng giêng tiệc lệ đầu xuân
Mồng năm, mồng sáu là tuần kỳ đinh
                         
Bánh dầy, rượu nếp, ca sênh
Lợn đen, ngũ quả cốt tinh, thật thà                                 
Còn ngày mồng một tháng ba
Cúng biện xôi gà, hoặc chỉ lễ chay
                              
Đoan dương, trùng thập những ngày
Trai bàn cũng được, thể thay xôi gà
Rằm tháng tám là ngày hóa nhật
Gà, lợn, trâu -  lễ vật tùy dùng
                               
Chính tiệc tháng Một mùa đông
Sinh nhật thời cùng mười một, mười hai
Ngũ quả, rượu nếp, bánh dầy
Hoặc trâu, hoặc lợn - đổi thay cũng tùy
 
Còn như tiệc lệ minh y
Mười một tháng chạp tùy nghi mà bày                   
Mặc lòng lễ tạp, lễ chay
Cốt ngày tiệc lễ xưa nay cho rành                     
Rước Thần kiêng mặc màu xanh.
 


Đoàn nghiên cứu tại sân Đình làng Phùng Xá - Thạch Thất - Hà Nội