(Thứ bảy, 17/09/2022, 09:54 GMT+7)
Nền thống trị của nhà Triệu trên đất Âu Lạc thiết lập từ năm 179 TCN khi Triệu Đà đánh bại An Dương Vương cho đến khi nhà Triệu bị nhà Hán tiêu diệt vào năm 111 TCN, kéo dài 68 năm, qua 5 đời vua. Ngay khi thôn tính xong Âu Lạc, Triệu Đà cho sát nhập toàn bộ đất đai Âu Lạc vào lãnh thổ Nam Việt và chia làm hai quận là Giao Chỉ và Cửu Chân, đặt dưới quyền thống trị của triều đình Nam Việt ở Phiên Ngung (Quảng Đông, Trung Quốc) Quận Giao Chỉ tương đương với khu vực Bắc bộ ngày nay. Quận Cửu Chân nằm ở phía nam quận Giao Chỉ, trải dài từ đèo Tam Điệp (bắc Thanh Hóa) đến dãy Hoành Sơn (nam Hà Tĩnh). Vùng đất Vĩnh Phúc khi ấy thuộc quận Giao Chỉ.
 
Dưới ách thống trị của nhà Triệu, xã hội Âu Lạc cũ bắt đầu có những biến đổi. Tuy nhiên, chính sách cai trị của nhà Triệu không được thực hiện trực tiếp mà chỉ ràng buộc lỏng lẻo, nên về cơ bản cơ cấu tổ chức cổ truyền của người Việt không bị giải thể mà vẫn tiếp tục phát huy sức sống tiềm tàng của nó. Xã hội nhìn chung khá ổn định, không có những biến động chính trị - quân sự đáng kể nào dưới thời thuộc Triệu.
 
Năm 202 TCN, Lưu Bang xưng đế (Hán Cao Tổ), lập ra nhà Hán. Tiếp tục những chính sách đối nội và đối ngoại của nhà Tần trước đây, các Hoàng đế Hán đẩy mạnh thực hiện "mộng bành trướng phương Nam", tiến tới "bình thiên hạ". Bằng các thủ đoạn phủ dụ và trấn áp quân sự, nhà Hán từng bước thôn tính Nam Việt. Năm 111 TCN, nhà Hán phát hơn 10 vạn binh tiến vào đất Nam Việt, triều đình Nam Việt nhanh chóng đầu hàng.
 
Lúc ấy, chính quyền Nam Việt ở Giao Chỉ và Cửu Chân không còn chỗ dựa, lo sợ, hoang mang cực độ. Bọn sứ giả, quan lại nhà Triệu đóng trên đất Âu Lạc đã và quỳ gối đầu hàng, dâng toàn bộ đất đai cho Lộ Bác Đức. Đất Âu Lạc chuyển từ ách thống trị của nhà Triệu sang nhà Hán.
 
Chiếm xong Nam Việt, nhà Hán chia vùng đất mới làm 9 quận là Đam Nhĩ, Chu Nhai (thuộc đảo Hải Nam, Trung Quốc), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô (thuộc hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Trung Quốc), Giao Chỉ (tương đương khu vực Bắc Bộ), Cửu Chân (tương đương vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh) và Nhật Nam (từ Quảng Bình đến Quảng Nam). Năm 106 TCN, nhà Hán đặt châu Giao Chỉ thống suất 7 quận ở lục địa (trừ hai quận hải đảo là Châu Nhai và Đam Nhĩ nay thuộc đảo Hải Nam, Trung Quốc) và đặt trị sở ở quận Giao Chỉ.
 
Trong châu Giao Chỉ, quận Giao Chỉ là lớn nhất và quan trọng nhất. Quận trị Giao Chỉ có thời điểm được đặt tại Mê Linh. Sách Đại Việt sử kí toàn thư chép: “Thời Tây Hán, trị sở của Thái thú đặt tại Long Uyên, tức là Long Biên, thời Đông Hán đặt tại Mê Linh tức là Yên Lãng”. Đất Yên Lãng xưa nay là huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc. Đến thế kỉ XIX, các tác iả sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng theo Toàn thư mà cho rằng: “Thời Đông Hán, trị sở ở Mi Linh (tức Mê Linh)”. Tuy nhiên, trong lời cẩn án chính cáo sử thần triều Nguyễn đã tỏ ý nghi ngờ: “Đời Đông Hán chưa hề đóng lị sở ở Mi Linh. Việc này e rằng sử cũ chép lầm”.
 
Tác giả Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời căn cứ vào đoạn ghi chép trong Thủy kinh chú: “Huyện Mê Linh, năm Nguyên Đỉnh thứ 6 (111 TCN) đời Hán vũ đế mở Đô uý trị ở đó” cho rằng nhà Hán khi mới chinh phục nước ta đã đặt quận trị Giao Chỉ ở Mê Linh. Tác giả lập luận rằng Mê Linh nguyên trước là một bộ lạc thời Hùng Vương. Đến khi An Dương Vương dựng nước Âu Lạc đã giáng con cháu họ Hùng xuống hàng Lạc tướng và cho họ tiếp tục coi giữ bộ lạc. Sau khi nhà Hán chiếm hai quận của nhà Triệu trên đất Âu Lạc cũ đã để thành Tây Vu là trị sở quận Giao Chỉ thời Triệu cho con cháu An Dương Vương giữ với tư cách là Tây Vu Vương, để đặt quận trị mới ở Mê Linh là một địa điểm trọng yếu khác. Với cách bố trí như vậy nhà Hán vừa có thể khống chế được đất Mê Linh của con cháu Lạc vương xưa, lại vừa có thể kiểm soát được Tây Vu là đất cũ của dòng dõi An Dương Vương. Mê Linh khi ấy là một địa điểm quan trọng, đầu mối của nhiều đường thuỷ đạo, có địa thế tốt để làm quận trị Giao Chỉ. Tuy nhiên, đến cuối thời Tây Hán, thấy Mê Linh ở thiên về góc Tây Bắc của quận, sự khống chế đối với các huyện miền Đông Nam gặp nhiều khó khăn, nhà Hán bèn dời quận trị đến nơi trung tâm của quận. Từ đó, Liên Lâu rồi Long Biên trở thành quận trị của Gian Chỉ. Mặc dù dời quận trị đến Liên Lâu nhưng nhà Hán vẫn đặt Đô uý trị tại Mê Linh để trấn áp miền Tây Bắc - nơi thường trực những mối lo chính trị (Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1992, tr.64-65).
 
Nếu đoạn ghi chép trên của Thủy kinh chú là đáng tin cậy và những lập luận của tác giả Đào Duy Anh là có căn cứ thì Mê Linh chính là nơi đầu tiên nhà Hán đặt làm quận trị Giao Chỉ. Cả Đại Việt sử kí toàn thưKhâm định Việt sử thông giám cương mục đều có lí khi cho rằng Mê Linh từng là quận trị Giao Chỉ. Có điều, tác giả các sách trên đều nhầm lẫn về thời điểm ra đời của nó. Đúng ra, Mê Linh là trị sở quận Giao Chỉ ngay đầu thời Hán trước khi chuyển về Liên Lâu và Long Biên cuối thời Tây Hán sang Đông Hán.
 
Không những là quận trị Giao Chỉ, Mê Linh có thể còn là trị sở đầu tiên của châu Giao Chỉ. Sách Giao Châu ngoại vực kí dẫn trong Thủy kinh chú chép rằng khi Phục ba tướng quân Lộ Bác Đức đến Hợp Phố, hai điển sứ của nhà Triệu ở Giao Chỉ và Cửu Chân đã quy hàng, được phong làm Thái thú và tiếp tục cai trị trên đất Âu Lạc cũ. Sách ấy cho biết thêm quận trị và châu trị. Giao Chỉ đầu thời Hán ở cùng một địa điểm. Căn cứ đoạn dẫn trên, tác giả Dào Duy Anh khẳng định: "Mê Linh là quận trị đầu tiên của Giao Chỉ, mà trị sở của Giao Chỉ bộ (châu Giao Chỉ) nhà Hán cùng đặt luôn ở đó”.
 
Về vị trí huyện Mê Linh thời Hán, đến nay nhiều ý kiến thống nhất cho rằng nó phần lớn thuộc đất Vĩnh Phúc. Căn cứ đoạn ghi chép trong Thủy kinh chú về dòng chảy của sông Diệp Du, tác giả Đào Duy Anh cho rằng huyện Mê Linh đời Hán nằm hai bên tả ngạn và hữu ngạn sông Hồng, bao gồm phía tây và bắc tỉnh Vĩnh Phúc (mà địa điểm quan trọng là thành Mê Linh, nay thuộc thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội) và phía tây bắc tỉnh Hà Tây cùng với miền Yên Bái (đến địa phương Đào Thịnh) ngày nay.
 
Phần đất phía đông bắc Vĩnh Phúc khi ấy thuộc huyện Vọng Hải. Lịch Đạo Nguyên trong Thủy kinh chú cho biết huyện này do Mã Viện đặt ra năm Kiều Vũ thứ 19 (năm 43). Hậu Hán thư (q.54) chép rằng Mã Viện thấy huyện Tây Vu quá rộng nên đã chia đặt làm hai huyện Phong Khê và Vọng giải. Sách Độc sử phương dư kỉ yếu chép rằng: "Ở phía đông thành cũ Phong Khê có huyện Vọng Hải". Xét vị trí huyện Vọng Hải nằm về phía đông thành Phong Khê, tức thành Cổ Loa (nay thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội) và phía bắc sông Cà Lồ thì huyện Vọng Hải thời Hán bao gồm đất huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc và miền đông bắc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ngày nay.
 
Như vậy, dưới thời thuộc Hán, vùng đất Vĩnh Phúc ngày nay chủ yếu thuộc huyện Mê Linh và một phần thuộc huyện Vọng Hải, quận Giao chỉ. Khi ấy, vùng đất này có một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng đối với chính quyền cai trị. Chính Mê Linh đã được sử dụng làm trụ sở đầu tiên của quận Giao Chỉ và cũng là của châu Giao Chỉ.
 
Đầu thời Hán, chế độ Lạc tướng ở các huyện vẫn được duy trì và chính sách cai trị vẫn theo truyền thống cũ của người Việt. Phương thức bóc lột cơ bản lúc này vẫn là cống nạp. Nhà Hán tuy đã áp đặt được một bộ máy đô hộ ở các cấp châu, quận, song chính giới thống trị Hán tộc cũng phải thú nhận là chúng chỉ có thể "dùng tục cũ mà cai trị", chứ không trực tiếp cai quản được các huyện vì ở huyện vẫn theo chế độ Lạc tướng cha truyền con nối của người Việt
 
Để dễ bề cai trị và làm cơ sở cho việc vơ vét, bóc lột, ngay khi chia xong đơn vị hành chính, nhà Hán tiến hành điều tra nhân khẩu và tài nguyên. Nhằm thực hiện âm mưu đồng hoá, nhà Hán tiến hành những đợt di dân hàng loạt sang đất Việt. Đặc biệt, sau loạn Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán, đã có một số khá đông quý tộc, địa chủ, sĩ phu Trung Quốc đem theo cả gia đình và tộc thuộc di cư xuống Giao Châu, dựa vào chính quyền đô hộ để sinh cơ lập nghiệp, xâm lấn ruộng đất và tài sản của người Việt. Nhiều người trong số đó đã về sống ở các làng quê, hòa mình trong cuộc sống dân gian và dần bị Việt hoá, trở thành người Việt.
 
Dưới thời Thái thú Tích Quang (ở Giao Chỉ) và Nhâm Diên (ở Cửu Chân), chính sách đồng hoá của nhà Hán ngày càng được tăng cường. Sách Hậu Hán thư chép: "Đời Quang Vũ trung hưng, Tích Quang làm Thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân, dạy dân cày cấy, chế tạo mũ giầy, bắt đầu đặt mối lái, dân mới biết hôn nhân. Dựng học hiệu, dạy dân lễ nghĩa". Thực ra, đó là thủ đoạn thống trị, bóc lột và đồng hoá hết sức tinh vi của chính quyền đô hộ Đông Hán. Ngoài việc bắt nhân dân ta phải cống nạp nhiều của quý vật lạ, nhà Hán còn ráo riết thi hành chính sách bóc lột tô thuế nặng nề, chiếm đất lập trang trại, nắm độc quyền sản xuất và mua bán một số mặt hàng thiết yếu. Đồng thời ra sức củng cố và hoàn thiện chính quyền đô hộ ở Giao Chỉ.
 
Năm 34, Tô Định thay Tích Quang làm Thái thú Giao Chỉ. Tô Định ra sức vơ vét thuế khoá, khống chế, đè nén các Lạc tướng và con cháu họ, khiến cho cả quý tộc cũ và nhân dân đều oán hận chính quyền đô hộ. Những hành động đó càng làm cho nhân dân ta sôi sục lòng căm thù, quyết tâm nổi dậy đấu tranh. Cùng với nhân dân khắp mọi miền, người dân Vĩnh Phúc đã nhất tề đứng dậy, tập hợp dưới ngọn cờ của Hai Bà Trưng đấu tranh chống ách đô hộ Hán. Đây là cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn nhất, tiêu biểu nhất của người dân Vĩnh Phúc trong thời Bắc thuộc. Và Hai Bà Trưng chính là những người con ưu tú nhất, vị anh hùng kiệt xuất nhất của Vĩnh Phúc trong công cuộc đấu tranh chống phong kiến phương Bắc.
 
Sau khi dập tắt cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 43), nhà Đông Hán càng điên cuồng thực hiện chính sách nô dịch, bóc lột và đồng hoá với quy mô và hệ thống hơn trước. Bước điều chỉnh quan trọng đầu tiên của nhà Đông Hán là ra sức tăng cường chế độ quận huyện. Đứng đầu chính quyền đô hộ ở Giao Chỉ (sau đổi thành Giao Châu) vẫn là viên Thứ sử. Đứng đầu mỗi quận (Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam) là Thái thú. Tuy nhiên, Thái thú lúc này không chỉ coi việc dân sự, mà còn kiêm quản cả việc quân sự. Bên cạnh đó, nhà Đông Hán còn bổ dụng thêm một số lại viên giúp việc để chuyên trách các mảng công việc do Thái thú giao. Ở cấp huyện, nhà Hán xoá bỏ danh hiệu và vai trò của người đứng đầu là các Lạc tướng người Việt. Thay vào đó, nhà Hán đặt chức Lệnh trưởng là các quan người Hán, do chính quyền Hán trực tiếp bổ nhiệm và có toàn quyền quyết định mọi việc trong huyện.
 
Chính sách thủ tiêu chế độ Lạc tướng và bãi bỏ luật pháp truyền thống của người Việt cho thấy rõ âm mưu của bên phong kiến Hán là muốn biến nước ta hoàn toàn trở thành những châu, quận, huyện dưới quyền cai trị của chúng và nhân dân ta trở thành những "thần dân" của chúng.
 
Lúc này, toàn bộ đất đai của người Việt đều bị chiếm đoạt, mặc nhiên thuộc quyền sở hữu tối cao của các Hoàng đế Hán. Người dân cày cấy ruộng đất công của công xã phải nộp tô, nộp thuế và chịu các nghĩa vụ lao dịch với chính quyền đô hộ.
 
Với chế độ tô thuế dựa trên việc thu nạp cống phẩm hết sức tuỳ tiện, không theo những quy định, phép tắc chặt chẽ, thống nhất đã trở thành cơ hội béo bở cho bọn quan lại lợi dụng bòn rút, vơ vét, cướp bóc của dân.
 
Cuối thế kỉ II, đầu thế kỉ III, triều Đông Hán ở Trung Quốc suy yếu nhanh chóng và sụp đổ. Nhân cơ hội ấy, chính quyền đô hộ ở Giao Châu đứng đầu là Sĩ Nhiếp đã tìm mọi cách tuyệt giao với phương Bắc, cát cứ ở phương Nam. Chúng mặc sức đục khoét, vơ vét của cải và áp bức dân chúng. Năm 226, Sĩ Nhiếp chết, nước ta lại lệ thuộc vào phong kiến nhà Ngô.
 
Năm 264, nhà Ngô cắt bốn quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm và Hợp Phố đặt làm Quảng Châu, còn Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam thuộc Giao Châu, châu lị đóng ở Long Biên. Tại Giao Châu, nhà Ngô chia ra thành nhiều quận, huyện nhỏ. Quận Giao Chỉ khi ấy được tách làm 3 quận là Giao Chỉ, Tân Hạng và Vũ Bình; quận Cửu Chân được chia thành Cửu Chân và Cửu Đức; chỉ có quận Nhật Nam là giữ nguyên. Miền đất Vĩnh Phúc khi ấy thuộc huyện Mê Linh, quận Tân Hưng. Huyện lị Mê Linh vẫn ở địa điểm làng Hạ Lôi (nay thuộc xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội) như thời thuộc Hán.
 
Dưới thời thuộc Ngô, chính sách vơ vét của cải vô hạn định bằng hình thức cống nạp được tăng cường hơn trước. Chúng còn ra sức lùng bắt dân thường bổ sung cho quân đội trong cuộc hỗn chiến đẫm máu thời Tam Quốc.
 
Chính sách cống phú, tô thuế nặng nề của chính quyền đô hộ đã dẫn đến tình trạng phá sản, bần cùng, lưu vong của đông đảo quần chúng nông dân, khiến cho "trăm họ xác xơ". Nhiều thành viên công xã người Việt phải rơi xuống thân phận nô tì. Tình trạng đó lại trở thành điều kiện thuận lợi cho chính quyền đô hộ thực thi chính sách di dân, lập đồn điền mà thực chất chính là thủ đoạn bóc lột tàn khốc hơn.
 
Năm 280, Tấn diệt Ngô, Trung Quốc tạm thời thống nhất. Quan cai trị của nhà Ngô ở Giao Châu là Đào Hoàng đầu hàng nhà Tấn. Vua Tấn cho Đào Hoàng giữ chức cũ. Khu vực nước ta chuyển sang ách đô hộ của nhà Tấn kẻo đài cho đến đầu thế kỉ V. Năm 420, Lưu Dữ lập ra nhà Tống. Cũng từ đây, Trung Quốc hình thành cục diện Nam - Bắc triều, trong đó Giao Châu phụ thuộc một cách lỏng lẻo vào các thế lực phong kiến Nam triều: Tống (420- 479), Tề (479-502), Lương (502-557), Trần (557-589).
 
Dưới thời thuộc Tấn, đơn vị hành chính của Giao Châu cơ bản vẫn được giữ nguyên như đời Ngô. Đất Vĩnh Phúc ngày nay vẫn thuộc huyện Mê Linh, quận Tân Xương.
 
Năm 589, nhà Tùy thống nhất Trung Quốc. Để khẳng định quyền thống trị của mình, nhà Tùy tiến hành phân lại các quận, huyện. Miền đất nước ta khi đó được chia làm 6 châu: Giao Châu (châu thổ sông Hồng); Hưng Châu (Phong Châu) khu vực Sơn Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thọ; Hoàng Châu (Ngọc Châu) khu vực duyên hải Đông Bắc; ái Châu khu vực Thanh Hoá; Đức Châu (Hoan Châu) khu vực Nghệ An, Hà Tĩnh và Lợi Châu (Trí Châu) vùng Hà Tĩnh. Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau, năm 697 Tùy Dưỡng Đế lại bỏ đơn vị hành chính cấp châu và lập lại cấp quận. Khi ấy, miền nước ta bao gồm 7 quận là: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Ninh Việt, Tị Ảnh, Hải Lâm và Lâm Ấp. Trong đó quận Giao Chỉ gồm 9 huyện là: Tống Bình, Long Biên, Chu Diên, Long Bình, Bình Đạo, Giao Chỉ, Gia Ninh, Tân Xương và An Nhân. Miền đất Vĩnh Phúc thời Tuỳ thuộc huyện Tân Xương, quận Giao Chỉ.
 
Năm 618, nhà Đường thay nhà Tùy thống trị Trung Quốc. Quan cai trị Giao Châu khi ấy là Khâu Hòa hàng phục nhà Đường, được vua Đường trao chức Giao Châu Đại tồng quản. Đất nước ta chuyền sang ách đô hộ của nhà Đường.
 
Nhà Đường lập tức bãi bỏ các quận do nhà Tuỳ lập và khôi phục lại các châu nhỏ thời Nam Triều, đặt ra Giao Châu Đại tổng quản phủ để quản lãnh 10 châu ở toàn bộ khu vực miền Bắc nước ta đến khu vực Đèo Ngang ngày nay, gồm: Giao Châu, Phong Châu, Ái Châu, Tiên Châu, Diên Châu, Tống Châu, Từ Châu, Hiểm Châu, Đạo Châu và Long Châu. Năm 622 nhà Đường đổi gọi Giao Châu Đại tổng quản phủ thành Giao Châu Đô hộ phủ. Năm 679 Đường Cao Tông chia đất Giao Châu làm 12 châu và đổi gọi thành An Nam Đô hộ phủ. Đứng đầu An Nam Đô hộ phủ là một viên Đô hộ hay Kinh lược sứ, đứng đầu các châu là chức Thứ sử.
 
Trong số đó, Phong Châu là châu mới đặt, bao gồm 5 huyện là Gia Ninh, Thừa Hoá, Tân Xương, Cao Sơn và Châu Lục. Miền đất Vĩnh Phúc ngày nay vẫn thuộc huyện Tân Xương.
 
Tiếp tục chính sách của các triều đại trước, nhà Tùy - Đường tăng cường các biện pháp vơ vét, áp bức và nô dịch. Cả nhà Tùy và nhà Đường đều ráo riết thi hành các thủ đoạn cai trị xảo quyệt, hà khắc và ngu dân. Chúng khống chế đất nước ta một cách chặt chẽ, nhưng về hình thức lại tỏ ra “ràng buộc”, mua chuộc phần nào tầng lớp trên của xã hội. Những chức vụ quan trọng nhất như Đô hộ, Kinh lược sứ An Nam nhà Đường thường cử người gốc Trung Quốc nắm giữ. Những chức vụ không phải chủ chốt ở dưới cấp châu, huyện, nhà Đường lại có chủ trương mở rộng cho tầng lớp hào trưởng bản địa tham dự, hướng tới xây dựng bộ máy tay sai là người bản địa. Đây thực chất chỉ là biện pháp mua chuộc, thu nạp các hào trưởng bản địa với hy vọng có thể làm mai một, đi đến dập tắt ý chí đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta.
 
Về mặt kinh tế, nhà Đường coi An Nam Đô hộ phủ là một trọng trấn để bóc lột. Như các triều đại trước, nhà Đường vẫn duy trì phương thức bóc lột truyền thống là bắt nhân dân ta phải cống nạp các loại lâm thổ sản quý và sản phẩm thủ công địa phương (như tơ lụa, sa, the, đồ mây, đồ gốm...). Sách Đại Nam nhất thống chí thế kỉ XIX cho biết miền đất Vĩnh Phúc nổi tiếng với rất nhiều loại đặc sản, như lụa trắng ở Yên Lãng (Mê Linh), vải trắng ở Yên Lạc, mật mía ở các huyện ven sông, gạo thơm ở Lập Thạch, gạo trắng ở Bình Xuyên, thạch xương bồ ở Tam Dương... đó rất có thể là những thứ cống phẩm khi xưa người dân Vĩnh Phúc phải nộp cho chính quyền đô hộ.
 
Tuy nhiên, hình thức bóc lột chủ yếu của nhà Đường đối với An Nam là tô thuế. Để bóc lột tô thuế, nhà Đường đặt ra phép tô - dung - điệu (tô là thuế ruộng đất, dung là thuế lao dịch và điệu là căn cứ vào hộ khẩu mà thu thuế - thuế thân). Theo phép tô - dung - điệu thì đinh nam được chia ruộng quân điền hàng năm phải nộp tô bằng lúa, phải nộp thuế điệu bằng lụa, lĩnh, the, bông và phải chịu sai dịch (dung). Năm 780, nhà Đường đổi phép tô - dung - điệu thành phép lưỡng thuế, vừa căn cứ vào chỉ xuất tài chính mà định tổng ngạch thuế, vừa dựa vào thực trạng giàu, nghèo mà định mức thu.
 
Ngoài ra nhà Đường còn thu nhiều thứ thuế khác với lệ thuế rất nặng. Đó là chưa kể đến bọn quan lại ở An Nam phần lớn đều tham nhũng, lợi dụng chức quyền ra sức vơ vét, bóc lột của cải của nhân dân.
 
Chính sách áp bức tàn khốc, vơ vét thậm tệ và đồng hoá thâm hiểm của các chính quyền phong kiến phương Bắc đã đẩy nhanh quá trình bần cùng hoá các tầng lớp nhân dân. Đó cũng là nguyên nhân chính thời bùng lên phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta, trong đó có sự tham gia tích cực của người dân Vĩnh Phúc suốt nghìn năm Bắc thuộc.
 
(Nguồn: vinhphuc.gov.vn)