Kính dâng Đương cảnh Thành hoàng
Đại vương Hữu tướng Phùng Thanh Hòa!
Thưa ngài Hữu tướng!
Trời Thái Bình hiển linh vua thánh,
Đất Hồng Vinh tướng mạnh sinh sôi.
Long Biên vừa mới thu hồi,
Tiêu Tư chạy bạt, Lương ngồi sao yên?
Vạn Xuân thắm, ngập tràn nước mở,
Thiên Đức tươi, rực rỡ tiền sinh.
Chùa Khai Quốc dựng bình minh,
Điện chầu Vạn Thọ lung linh muôn đời.
Lý Nam Đế ngôi trời riêng ngự,
Sánh Bắc phương, thiên tử hiên ngang.
Trăm quan văn võ hai hàng,
Tướng quân Tả - Hữu mở trang uy hùng.
Tả Quang Phục vẫy vùng Đông trấn,
Hữu Thanh Hòa giữ trận Tây phương.
Hữu tướng nhớ lắm quê hương,
Trang Hồng Vinh để vấn vương bao lòng.
Cha Phùng Thủy ước mong điều thiện,
Mẹ Hoàng Mai toàn diện đức nhân.
Sông Châu, sông Đáy tươi nhuần,
Nam Xương, Phủ Lý giáng thần sinh ra.
Mẹ lại sang An Hoa, Thạch Thất
Bế bồng con thân mật lại qua.
Mê vùng xanh biếc nhân hòa,
Mê vùng là lượt mà ra tên người.
Tên Thanh Hòa, nơi nơi thân mật,
Gắn đình làng phảng phất khí linh.
Tưởng nay cửa Ó còn hình,
Tiếng con lời mẹ đượm tình nghìn thu.
Thanh Hòa lớn, rèn tu văn võ,
Lòng gấm hoa, mắt tỏ binh mưu.
Càng say lễ hội sớm chiều,
Hát hay, vật giỏi làm siêu bao lòng.
Người mê sáo Tử Phòng quyến rũ,
Tám nghìn quân đệ tử tự tan.
Mê Thạch Sanh một phím đàn,
Chư hầu không đánh vẫn bàn lui binh.
Người tha thiết hòa bình Tổ quốc,
Nhưng Bắc phương hung hãn sao nguôi?
Tích lương, luyện kiếm chờ thời,
Đem quân bản bộ ứng lời vua ban.
Buổi bệ kiến muôn vàn quyến luyến,
Chốn điện vàng vua mến yêu ngay.
Đăng đàn bái tướng một ngày,
Vâng đem binh lực trấn ngay quê nhà.
Đất Nam Xương gần xa vững trãi,
Vùng Lý Nhân một dải yên bình.
Làm vua vững chí điều binh,
Đức Châu đến Bắc sóng kình bặt tan.
Đảo Hợp Phố ngút ngàn lửa Việt,
Cực Bắc Châu diệt hết Lương binh.
Phạm Tu thỏa sức Nam chinh,
Đại thắng Cửu Đức quang vinh muôn đời.
Lần đầu tiên hết thời Lạc tướng,
Các thổ hào quyền hưởng nước ta.
Bãi bỏ lịch cũ Trung Hoa,
Nam đối chọi Bắc sơn hà chủ riêng.
Ôi! Một năm thiêng liêng cởi ách!
Ôi! Một năm rũ sạch bụi Tàu,
Bừng bừng binh lửa bỗng đâu.
Dương Phiên, Trần Bá hai đầu kéo sang.
Cửa Tô Lịch ầm vang trống Việt,
Tướng Phạm Tu lẫm liệt hi sinh.
Đỏ trời rực lửa thủy binh,
Lũy tre thành đất khó bình giặc to.
Triệu Thái phó bạc phơ mái tóc,
Vẫn vung gươm ngang dọc về tiên.
Hữu tướng nhớ mãi lão hiền,
Ôi, bậc cha, chú gương in đáy lòng!
Vua phải ngược sông Hồng lui giữ,
Thành Gia Ninh cố thủ mùa đông.
Bá Tiên vây xiết muôn trùng,
Dương Phiên tiếp viện kín vùng xung quanh.
Hữu tướng quá xa thành lương vận,
Nhìn lửa trời biệt trận cơ nguy.
Múa thương vùn vụt ngựa phi,
Chặt cờ đâm tướng diệu kỳ hùng anh.
Rạch đường máu xuyên thành cứu chúa,
Đưa người về Động Lão Tân Xương.
Dòng Lô cuồn cuộn mở đường,
Núi rừng đất Bắc còn vương vấn người.
Tả tướng đi mọi nơi mộ lính,
Hữu tướng thì chấn chỉnh võ công.
Điển Triệt hồ nước mênh mông,
Đồi gò uốn lượn, rừng sông quây quần.
Vua Nam Đế kéo quân hạ thủy,
Tả, Hữu tìm vị trí chứa lương.
Trên đồi trại dựng bốn phương,
Dưới nước thuyền chiến cung thương kín hồ.
Đây thành Đền nhấp nhô trên nước,
Nơi vua tôi chiến lược luận bình.
Hữu tướng công thủ tâu trình,
Tả tướng độc mộc vẽ hình dâng lên.
Kia Đồi Ngự án tiền cao ngất,
Theo vua lên tất thấy giặc Lương.
Mắt Hữu tướng dõi bốn phương,
Việt Trì - Bạch Hạc mến thương rõ hình.
Thuyền giặc từ Gia Ninh tiến bước,
Ngược dòng Lô sau trước tấn công.
Thấy ta khí thịnh quần hùng,
Sợ vùng hiểm địa mịt mùng đồi sông.
Đành co cụm ngóng trông đóng lại,
Trần Bá Tiên e ngại lo lường.
Sao vua chẳng biết tính đường?
Sao chẳng chủ động chiến trường đánh ngay?
Để cho giặc có ngày củng cổ,
Tiếp viện về thuyền đỗ kín sông.
Hời ơi! Trời chẳng chiều lòng,
Một đêm mưa lũ ngập sông tràn hồ!
Ta thành các đảo cô đơn chiếc,
Thuyền giặc thì ngang dọc tựdo.
Binh Nam bị đánh bất ngờ,
Đức vua đành phải phất cờ lui quân.
Cuộc thoát hiểm muôn phần gian khó,
Hữu tướng đành mộc đỡ che vua.
Lô, Thao vượt lũ giữa mùa,
Cây gươm Hữu tướng ngăn ngừa hậu quân.
Đây Khuất Lão, náu thân lần cuối,
Vua lui về sông suối Tam Nông.
Văn Lang, Cổ Tuyết, Cổ Bồng
Đầm lầy gò đất sóng Hồng vây quanh.
Đây Hữu tướng ngày canh đêm giữ,
Bảo vệ vua thách thử niềm trung.
Tiếc thay thế tận lực cùng,
Sao trời rơi xuống anh hùng chia ba!
Lý Thiên Bảo dời qua Hoan Ái,
Động Dã Năng đóng lại xưng vương.
Triệu Quang Phục quyết lên đường,
Hưng Yên, Dạ Trạch chống Lương trường kỳ.
Ôi Hữu tướng chia ly lưu luyến,
Tình đồng liêu xao xuyến biết bao!
Đành về chốn cũ non cao,
Về vùng Tích, Đáy sóng trào vờn quanh.
Mười hai ngọn dựng thành che chở,
An Hoa Trang rộng mở cưu mang.
Sài Sơn, Câu Lậu, non Hoàng,
Về vùng linh địa ngập tràn ái nhân.
Đây là đất quen thân chờ mẹ,
Tiếng ầu ơ tuổi trẻ sao quên?
Nên càng gắng sức khai điền,
Tằm tơ canh cửi khắp miền mở ra.
Đây là đất khai hoa thịnh vượng,
Mối kỳ duyên Hữu tướng sinh sôi.
Dòng Phùng nối tiếp đâm chồi,
“An Hoa” tên đổi tuyệt vời “Phùng gia”.
Đây là chốn nhân hòa địa lợi,
Xây làng giàu tiến tới chống Lương?
Ai ngờ dang dở… bất thường,
Hỡi ơi! Tướng trẻ lên đường biệt ly.
Ơi! Còn đó diệu kỳ khác lạ,
Nơi ở xưa bỗng hóa điện thờ.
Văn bia Tiền Lý không mờ,
Sắc phong Lê đế tới giờ còn tươi.
Người còn đó, ngời ngời Đương cảnh,
Trước điện tòa rực sánh nghi dung.
Mãi còn sực nức sen hồng,
Mãi còn che chở muôn lòng muôn dân.
Nay gặp buổi cúng Thần thanh tịnh,
Chúng con xin thành kính dâng lên.
Dâng người cỗ cúng hương trần,
Dâng người thơm thảo những vần chúc văn.
Đinh Công Vỹ và Dòng họ Phùng chúng con xin chân thành cẩn tấu!