GIỚI THIỆU VỀ HỌ VƯƠNG
VÀ ANH HÙNG DÂN TỘC VƯƠNG QUÝ NGUYÊN
Họ Vương Việt Nam chúng tôi đang viết tập sách Lịch sử các danh nhân Việt Nam họ Vương. Trong tập sách này nổi lên là cụ Vương Quý Nguyên - Thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa chống giặc nhà Đường năm 803 (Tiếp theo sau cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng). Cuộc khởi nghĩa đã đánh đuổi Đô hộ sứ Bùi Thái về Tàu. Tiếp đó, Triệu Xương, tên giặc già lại sang cai trị nước ta lần thứ II. Một nhân vật quan trọng nữa là bà Chính phi Vương thị, vợ của Đức vua Phùng Hưng.
Những tư liệu về hai vị tiền bối họ Vương sử sách ghi rất ít. Vì cuộc khởi nghĩa năm 803 của cụ Vương Quý Nguyên ít nhiều có mối dây liên hệ, liên quan tới cuộc khởi nghĩa của vua Phùng Hưng nên tôi gửi tới hai vị bài viết này.
Chỉ mong rằng hai vị nghiên cứu nhiều tài liệu lịch sử, có chi tiết nào mới viết về hai vị tiền bối họ Vương và các danh nhân họ Vương Việt Nam xin các vị giúp đỡ.
Xin trân trọng cảm ơn!”
Anh hùng dân tộc Vương Quý Nguyên
Cụ Tổ họ Vương và cuộc khởi nghĩa năm 803
chống ách đô hộ của nhà Đường
Tháng 3 năm 2018, nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An và gia tộc họ Vương toàn quốc đã long trọng kỷ niệm 1215 năm (803-2018) cuộc khởi nghĩa của Anh hùng dân tộc Vương Quý Nguyên - cụ Tổ họ Vương đã lật đổ ách đô hộ của nhà Đường năm 803. Lễ Kỷ niệm đuợc tổ chức ngay tại đền thờ Vương Quý Nguyên xã Thuận Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
Đã hơn một ngàn năm trôi qua. Sự kiện lịch sử to lớn này đã bị thời gian vùi lấp, môi trường tàn phá và cả chiến tranh huỷ hoại. May mắn sao, những cháu con tâm huyết hậu duệ của cụ Tổ họ Vương Quý Nguyên đã không tiếc công sức, tiền của tu tạo di tích đền thờ, truy tìm tư liệu lịch sử. Chính vì thế đã làm sống lại sự kiện lịch sử quan trọng này. Cuộc Khởi nghĩa của Thủ lĩnh Vương Quý Nguyên cụ Tổ họ Vương.
Ngày nay, qua thư tịch cổ của Trung Quốc và ghi chép sơ sài của lịch sử Việt Nam. Rất tiếc những thông tin về cuộc khởi nghĩa quá ít ỏi.
Con cháu họ Vương hy vọng rằng các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hoá, các nhà văn hóa, các học giả rồi đây sẽ vào cuộc để làm sáng tỏ và đầy đủ cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm này của cha ông ta.
Qua những thông tin sơ sài và ít ỏi mà ta đã có được. Qua chắp nối từng sự kiện lịch sử của nước ta xảy ra trước và sau cuộc khởi nghĩa, suy luận các chi tiết viết về cuộc khởi nghĩa trong thư tịch cổ của tàu và cả của ta. Tôi xin nêu thêm vài suy nghĩ cá nhân xung quanh cuộc khởi nghĩa của thủ lĩnh họ Vương năm 803.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Hơn 1000 năm Bắc thuộc, dân tộc Việt Nam ta đã phải chịu biết bao nhiêu nổi thống khổ dưới các Triều đại phong kiến Trung Hoa. Đặc biệt giai đoạn Bắc thuộc lần thứ ba (603-939) duới ách thống trị của nhà Tuỳ và nhà Đường.
Năm 671, Đường Cao Tông lập An Nam đô hộ phủ. Nhà Đường chia đất giao chỉ thành 12 châu, 59 huyện. Mỗi Châu đều đặt đô đốc phủ do bọn thống trị cầm đầu. Việc chia nhỏ cơ quan cai trị hành chính khiến nhà Đường khống chế đất An Nam một cách chặt chẽ hơn, để bóc lột dân An Nam thậm tệ hơn.
Tuy vậy, nhân dân ta vẫn không ngừng nổi lên giành độc lập. Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa Lý Tự Tiên, Đinh Kiến (687), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (791), Vương Quý Nguyên (803), Dương Thanh (828), Khúc Thừa Dụ (905)... Các cuộc khởi nghĩa trên chỉ tồn tại được thời gian ngắn sau đó thất bại và bị bọn thống trị đàn áp khốc liệt dã man. Quân khởi nghĩa còn non trẻ chưa có đủ thời gian để huấn luyện, không thể đánh trả được lực lượng vật chất hùng hậu của giặc.
Các cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm bấy giờ tuy thất bại nhưng đã để lại dấu son chói lọi trong lịch sử đấu tranh cứu nước và giữ nước của nhân dân ta.
Ngày nay sở dĩ chúng ta biết được các cuộc khởi nghĩa trên đó là nhờ vào các câu chuyện, các truyền thuyết được truyền khẩu từ đời này qua đời khác. Đến thời có văn tự thì được khắc vào bia đá, ghi vào các gia phả, phả ký trong các đền thờ. Cuộc khởi nghĩa của Vương Quý Nguyên may mắn còn được ghi trong thư tịch cổ của Tàu. Trong lịch sử Việt Nam và cả trong bia đá đền thờ Bách Thần tại Đô Lương, Nghệ An.
Đền Bách Thần
II. BỐI CẢNH LỊCH SỬ AN NAM ĐÔ HỘ TRƯỚC CUỘC KHỞI NGHĨA:
Năm 761, quyền thống trị của nhà Đường ở An Nam suy yếu. Giặc Côn Lôn và Chà Và ở ngoài biển thường xuyên vào cướp bóc. Nhà Đường là Trương Bá Nghi phải đóng cửa thành chờ quân Đường sang cứu viện, vua Đường cử Cao Chính Bình sang An Nam đánh dẹp. Dẹp xong giặc Chà Và, Cao Chính Bình ở lại làm An Nam Đô hộ sứ. Cao Chính Bình là tên quan cai trị tham lam và độc ác. Một Hào trưởng người Việt ở ấp Đường Lâm Sơn Tây đã nổi lên khởi nghĩa. Qua nhiều năm củng cố và phát triển lực lượng. Năm 791, năm đạo quân của Phùng Hưng tiến đánh thành Tống Bình. Cao Chính Bình đánh không nổi chạy về thành lo sợ mà chết. Giải phóng được đất nước, Phùng Hưng lên làm vua được dân tôn là Bố Cái Đại Vương trị vì được 7 năm. Con là Phùng An lên thay.
Mùa thu 791, Đường Đức Tông cử Triệu Xương cùng chục vạn quân sang xâm lược Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng thất bại(Giáo sư Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, Nhà xuất bản giáo dục). Đánh thắng Phùng Hưng, Triệu Xương được làm An Nam độ hộ sứ. Sách Đường Thư cho biết Triệu Xương là tên cai trị rất khôn khéo, mềm mỏng. Hay dùng người bản địa để cai trị người bản địa. Chữ “khôn khéo” ở đây ta đoán rằng dù đã đánh thắng được Phùng Hưng nhưng hắn vẫn sợ dân An Nam nổi lên và cái gương Cao Chính Bình vẫn còn đó. Một cái khôn nữa đó là hắn chỉ loanh quanh ở phía Bắc chứ không dám mò đến các nơi rừng núi như Châu Ái, Châu Hoan. Chính vì thế hắn đã ngồi cai trị yên ổn được 10 năm (791-801) theo Đường Thư.
Khâm định Việt Sử thông giám cương mụcchép: “Năm 801 Triệu Xương 70 tuổi xin vua Đường cho người sang thay. Nhà Đường sai lang trung binh bộ Bùi Thái sang làm An Nam đô hộ”...
III- DIỄN BIẾN CUỘC KHỞI NGHĨA:
Năm Tân Tỵ (801), Đường Đức Tông cử Lang Trung binh bộ Bùi Thái sang Giao Chỉ làm An Nam đô hộ sứ, Bùi Thái là tên tướng trẻ nên hiếu thắng. Hai năm đầu hắn ổn định tình hình chính trị ở Bắc Giao Chỉ, đánh dẹp nốt các cuộc nổi dậy các vùng căn cứ cũ của Phùng Hưng, Phùng An (năm 802 mới tan rã hẳn theo Lịch sử các Triều đại của Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng) Năm 803, hắn mới mò vào vùng Châu Ái và Châu Hoan, bắt dân ta lấp hào rãnh, đắp đường xây thành trì kiên cố để bảo vệ thống trị của nhà Đường. Hắn không biết rằng các châu trên từ lâu đã là lãnh địa tư chủ người Việt do các thủ lĩnh Phùng Hải, Đỗ Anh Hào, Đỗ Anh Sách, Vương Quý Nguyên hoặc ai đó mà sử sách tàu và ta đều không biết mà ghi chép: sẵn có tinh thần dân tộc và tự chủ, không thể để cho bọn thống trị xây thành đắp luỹ đàn áp nhân dân. Thủ lĩnh Vương Quý Nguyên cùng với các hào trưởng, bộ tộc trong châu lãnh đạo nhân dân hai châu Hoan và Ái nổi lên khởi nghĩa đánh đuổi đô hộ sứ Bùi Thái… Đại Việt sử ký toàn thư chép …“Quý Mùi (803), Đường Trinh Nguyên thứ 19, Đô đốc Bùi Thái sai lấp bỏ những hào rãnh trong thành làm một. Tướng Trọng Châu là Vương Quý Nguyên đuổi Bùi Thái đi...” Sách Tư trị thông giám chép …“Năm Trinh Nguyên thứ 19, tháng 2 Đinh Hợi (?) An Nam nha tướng Vương Quý Nguyên (trục) quan sát sử Bùi Thái chạy tới Chu Diên…” đơn vị hành chính do nhà nước Hán thành lập nằm dọc sông Đáy, Sơn Tây và Hưng yên ngày nay). Từ Châu Hoan (vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, Lâm Ấp, Bắc Trường Sơn, một phần Trung Lào) Nghĩa quân của Vương Quý Nguyên đã đánh đuổi Đô hộ sứ Bùi Thái chạy ra tận phía Bắc. Điều này chứng tỏ cuộc khởi nghĩa đã được nhân dân hai châu Hoan và Ái nhiệt liệt hưởng ứng, Bùi Thái chạy đến đâu cũng bị nhân dân các xã, huyện đuổi đánh. Nhận được tin dữ, Vua Đường Đức Tông cho vời Triệu Xương vốn là An Nam đô hộ cũ đến hỏi tình hình và bàn kế hoạch. Đã từng 10 năm cai trị trên đất An Nam, Triệu Xương nắm rất rõ tình hình Giao Chỉ. Vua Đường lại cho Triệu Xương sang làm An Nam Đô hộ sứ lần thứ hai và đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Vương Quý Nguyên tên giặc già lúc này đã 72 tuổi (Đường thư).
IV. NHỮNG SUY LUẬN XUNG QUANH CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA VƯƠNG QUÝ NGUYÊN
Thật đáng tiếc sử sách của Tàu và ta ghi chép về cuộc khởi nghĩa quá sơ sài ít ỏi. Cuộc khởi nghĩa nổ ra đã trên 1200 năm. Những giai thoại, câu chuyện trong dân gian cũng đã mai một. Lúc này ta khó có thể hình dung ra cuộc khởi nghĩa diễn ra ban đầu ra sao, kết thúc thế nào? Bị quân nhà Đường đàn áp dã man có phải chỉ trong năm 803 hay nhiều năm sau mới thất bại để tiếp theo đến cuộc khởi nghĩa của Dương Thanh năm 828. Con cháu Họ Vương rất mong được các nhà khoa học, sử học làm sáng tỏ thêm.
Bằng cách suy luận đơn giản, bằng cách xâu chuỗi các sự kiện lịch sử của đất nước đã xảy ra trước và sau cuộc khởi nghĩa, xem xét những vấn đề lịch sử có liên quan hoặc ảnh hưởng đến cuộc khởi nghĩa của Vương Quý Nguyên. Chúng tôi xin đặt ra vài suy nghĩ sau:
1. Mặc dù đất Giao Chỉ bị nhà Đường đô hộ, song chúng vẫn không kiểm soát được toàn bộ An Nam. Những vùng nông thôn, miền núi, những nơi xa xôi vẫn do người Việt cai quản, tự trị.
2. Về chính trị
Trở lại cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng ngày ấy ra từ năm 761 (hay 766), sau hơn 20 năm xây dựng và phát triển lực lượng, năm 791 giành thắng lợi, Phùng Hưng làm vua được 7 năm, con là Phùng An nối nghiệp được 2 năm. Năm 802 mới thất bại (các triều đại Việt Nam của Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng). Như vậy cha con Bố Cái Đại Vương tự trị An Nam được 11 năm (791-802). Lại theo Đường Thư của Tàu thì Triệu Xương đánh thắng Phùng Hưng ở lại làm An Nam đô hộ được 10 năm đến năm 801 già, đau chân xin về nước (791-801) như vậy rõ ràng An Nam lúc đó có hai chính quyền cùng song song tồn tại. Một của Đô hộ nhà Đường đóng ở thành Tống Bình (Khu vực Hà Nội nay) hai do Phùng Hưng, Phùng An cùng với Đỗ Anh Hàn, Đỗ Anh Sách, Vương Quý Nguyên cầm đầu chính quyền đóng đô ở vùng nào có phải là Châu Ái hay Châu Hoan không? Có một điều chắc chắn rằng trước năm 803, thủ lĩnh Vương Quý Nguyên là “An Nam Nha Tướng” (Sách Tư trị thông giám cương mục). Mảnh đất Châu Ái và Châu Hoan là đất chiến lược quân sự. Rất nhiều các anh hùng hào kiệt sinh ra ở đây dậy nghiệp khởi nghĩa cũng ở đây. Lịch sử Việt Nam đã ghi nhận nhiều Triều đại Việt Nam thất thế đều chạy vào phía Nam như An Dương Vương chạy vào Nghệ An, Hồ Quý Ly chạy vào Hà Tĩnh, Lý Phật Tử chạy vào Thanh Hoá. Vậy Phùng An có chạy vào Nghệ An không?
Trong cuộc hội thảo về Phùng Hưng do họ Phùng Việt Nam tổ chức trọng thể tại Văn Miếu Quốc Tử Giám tại Hà Nội. Giáo sư Trần Ngọc Vương vị giáo sư nổi tiếng ở Nghệ An, với kiến thức uyên thâm và suy luận logic, giáo sư Vương trình bày tham luận cho rằng cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng xảy ra ở Thanh Hóa, Nghệ An chứ không phải ở Đường Lâm Sơn Tây. Bản tham luận làm cho cả hội trường xôn xao nhà sử học Dương Trung Quốc và Trung tướng Phùng Khắc Đăng - Chủ tịch Hội đồng họ Phùng đồng chủ trì cuộc hội thảo cho rằng đây là ẩn số của lịch sử. Vấn đề Giáo sư Vương nên lên là một phản biện cần được các nhà khoa học xem xét. Qua vấn đề Giáo sư Vương nêu lên ta “võ” đoán rằng Phùng Hưng đã ở Châu Hoan. Vậy An Nam nha tướng Vương Quý Nguyên phục vụ dưới trướng của ông hay là ai khác mà lịch sử không ghi chép làm cháu con đau đầu.
b. Về kinh tế:
Qua số liệu sử sách cho biết bọn thống trị nhà Đường không thể kiểm soát được hết các làng xã từ bắt lính, phục dịch cho đến tổ thuế thời Tuỳ Đường An Nam có 159 hương (xã lớn) hàng vài ngàn hộ song bọn thống trị chỉ thu thuế được 57.000 hộ (Giáo trình Đại cương lịch sử Việt Nam).
Qua các sự kiện chính trị và số liệu kinh tế trên đây ta thấy rằng, An Nam trước cuộc khởi nghĩa của Vương Quý Nguyên có hai chính quyền song song cùng tồn tại để bảo vệ chính quyền độc lập và tự chủ của người Việt đó là lý do của cuộc khởi nghĩa chống nhà Đường đô hộ năm 803.
III- NHỮNG MÂU THUẪN TRONG GHI CHÉP LỊCH SỬ:
Thời nào cũng vậy, sức mạnh và lẽ phải luôn luôn thuộc người chiến thắng và kẻ thống trị. Sử sách của bọn thống trị luôn che giấu nhưng thất bại của chúng tô vẽ thêm những thắng lợi của chúng. Bất đắc dĩ lắm để chứng minh cho sức mạnh và thắng lợi chúng mới ghi chép ít, sơ sài vài dòng về đối phương. Thời Bắc thuộc ta chưa có người Việt viết sử. Nếu có cũng bị bọn thống trị bắt giết hoặc ghi chép bị đốt hoặc mang về tàu. Những nhà viết sử Việt Nam của các triều đại sau này hầu hết đều dựa vào các ghi chép của sách vở Tàu nhất là thời kỳ đầu dựng nước, thời kỳ Bắc thuộc. Trong con mắt Nho học truyền thống, các vị ấy không dám viết hoặc bình luận những sự việc xảy ra của đất nước một cách thực tế và khách quan. Họ không có dũng khí như Thái sử gia nước Tề ngày xưa hoặc ít ra cũng có được đôi câu khẳng khái như sử gia Lê Nghĩa đời Lê Thánh Tông. Chính vì thế những ghi chép của họ ít nhiều sai lệch, không thực tế và phiến diện. Ví dụ Đại Việt sử ký của ta chép: “...Vua Đường vời Xương hỏi tình trạng, Xương đã ngoài 70 tuổi mà tâu việc rõ ràng. Vua Đường cho là giỏi lại sai làm Đô hô Giao Châu. Xương đến (An Nam) người trong châu đều mừng. Loạn bèn yên...’’ (Loạn cuộc khởi nghĩa của Vương Quý Nguyên) “Yên” do dân An Nam vui mừng vì quan đô hộ cũ lại đến hay yên vì Triệu Xương đàn áp dã man cuộc khởi nghĩa thất bại mà yên? Rõ ràng Đại Việt sử ký của ta chép nguyên văn Đường Thư của Tàu mà không có sự đối chiếu giữa chính sử, dã sử hay truyền thuyết. Nếu cẩn tắc như sử gia Tư Mã Thiên (145-86) của Tàu thì phải vào Châu Hoan đến đền thờ Bách Thần xem xét cho rõ ràng rồi mới ghi vào quốc sử (đền Bách Thần thờ Vương Quý Nguyên lập từ năm 940 trước các sử gia Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên nhiều trăm năm).
Trở lại cuộc khởi nghĩa của Vương Quý Nguyên, sách Tư trị thông giám chép: “Bùi Thái chạy đến Chu Diên cùng tháng, tả binh mã triệu quân giết Quý Nguyên”...(?). Đoạn ghi chép trên rõ ràng là mâu thuẫn. Bùi Thái chạy mất mặt đến đâu cũng bị dân ta đuổi đánh từ Châu Hoan ra đến Bắc làm sao vừa chạy vừa huy động cả triệu quân vừa đánh nhau với Quý Nguyên trong 30 ngày quân lính lấy đâu ra mà lắm thế. Theo sử sách thời Tuỳ Đưòng, lúc đó Bắc Giao Chỉ có 9 huyện với 30.056 hộ. Nếu mỗi hộ ước 7 người như thời nhà Hán thì số dân chỉ có khoảng 211.000 người. Số quân đội chính quy đồn trú thường trực của nhà Đuờng bấy giờ từ 4000 đến 4200 quân. Bùi Thái lấy đâu ra cả triệu quân. Nếu Bùi Thái chạy về tận kinh đô nhà Đường huy động quân chắc chắn phải hàng năm trở lên, những ghi chép trêm rõ ràng là vô lý.
Một điều đã thành lệ của Vua chúa Tàu đó là tên tướng nào đánh dẹp, đàn áp thắng lợi các cuộc nổi dậy của dân bản xứ đều được vua Tàu cho ở lại làm quan đô hộ. Nếu Bùi Thái đánh thắng Vương Quý Nguyên tại sao hắn không được vua Đường cho làm An Nam Đô hộ sứ lần thứ hai. Phải chăng hắn lại đem hàng chục vạn quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Nếu thế thì cuộc khởi nghĩa chống giặc Đường của Vương Quý Nguyên không thể thất bại trong thời gian chỉ một tháng (?).
Trên đây là vài suy nghĩ, suy luận thêm cho các con cháu họ Vương có cái nhìn thực tế hơn, khách quan hơn về quy mô và tầm vóc của cuộc khởi nghĩa để cháu con thấy rõ thắng lợi to lớn của cuộc khởi nghĩa cũng như ý chí quật cường của cha ông ta. Qua đó chúng ta bác bỏ những ghi chép sai sự thật, đầy mâu thuẫn, bưng bít những thất bại và tô vẽ thắng lợi của sử sách Tàu.
Chúng ta vô cùng biết ơn nhân dân Châu Hoan, nhân dân Nghệ An đã gìn giữ được những tài sản phi vật thể, vật thể quý giá của cha ông ta. Chúng ta vô cùng biết ơn cụ Đinh Công Trứ đã cho xây đền thờ Bách Thần năm 940 để thờ các anh hùng dân tộc chống giặc ngoại xâm trong đó cả danh nhân Vương Quý Nguyên.
Trải qua hơn 1200 năm, dưới sự huỷ hoại của thời gian, môi trường và giặc dã can qua, đền thờ đã nhiều lần bị hư hỏng, tàn phá.
Để có nơi thờ phụng và biết được lịch sử cha ông như ngày nay. Chúng ta vô cùng cảm ơn Nghệ sĩ Đạo diễn Vương Khải Vinh, nhà sử học Dương Hiệu cùng nhân dân Đô Lương năm 2003 đã tu tạo đền mà nay gọi là đền thờ các danh nhân. Cảm ơn các anh hùng, liệt nữ, các danh nhân đã xả thân vì đất nước bảo vệ quê hương để con cháu có được cuộc sống an vui hạnh phúc. Cảm ơn quý vị đã đọc hoặc nghe bài viết này.
Xuân Mậu Tuất 2018
Vương Duy Miên
Chi họ: Vương Duy, làng Hương Ngải, Thạch Thất, Hà Nội
ĐT: 0978194742
Ghi chú thêm:
- Cụ Đinh Công Trứ là bố đẻ Vua Đinh Tiên Hoàng. Năm 931 tham gia cuộc khởi nghĩa chống quân Nam Hán của Dương Đình Nghệ, cuộc khởi nghĩa thắng lợi, cụ làm thứ sử Châu Hoan. Thể theo ý dân. Cụ cho xây dựng đền Bách Thần (940).