PHẦN I
LỊCH SỬ DÒNG HỌ
Dòng Họ Phùng Xuân ở Hữu Văn - Chương Mỹ - Hà Nội do Tổ phụ Phùng Đình Nghĩa khởi dựng. Theo cuốn “Thừa sao nguyên phả” của cụ Phùng Đình Tỉnh sao lục năm thứ XIII Niên hiệu Tự Đức (1860) thì: Thượng tổ ông Phùng Đình Nghĩa (hiệu Phúc Quảng) sinh năm Mậu Thân thời Lê Dụ Tông niên hiệu Bảo Thái - (1728) . Đời vua Cảnh Hưng thứ VIII (năm 1748) thi đỗ và ra làm quan cho triều đình nhà Hậu Lê khi mới 20 tuổi. Đến thời Tây Sơn niên hiệu Quang Trung năm thứ II (1789) được sắc phong chức Tuần phủ (1)Ứng Thiên kiêm Tri huyện án sát hai xứ Hữu Na và Mỹ Lương, hưởng hương tiền thập lý tri (bổng lộc của mời xã trong vùng). Tương truyền vào Tiết Nguyên Đán năm Giáp Dần (1794) Niên hiệu Cảnh Thịnh thứ II. Khi xem thiên văn thấy Doanh đầu tinh(2) mọc ở phương Nam, Cuồng Thỉ(3) mọc ở hướng Tây cho rằng sắp có đại nạn! Mùa xuân năm đó trong một chuyến đi săn ở gò Đụn (nay là Xóm Đông viên) chợp mắt mơ thấy Thái Âm(4) và Mộc Đức(5) hiện lên cùng nhắc đến chuyện lưu giữ điền nghiệp cho con cháu. Tỉnh dậy xét linh ứng với thiên tượng trong tiết nguyên đán, lại thấy nơi đây Tây cao hơn Đông; Minh đường(6) ngay ngắn và tụ thủy; Thanh Long(7), Bạch Hổ(8) hiền hòa; Huyền Vũ(9) , Châu tước(10) tròn, cao nhưng không lấn át Minh Đường;Thế đất vững chắc có thể xây nhà, dựng trại, bao quanh là những cánh đồng chiêm rộng lớn chống được đạo tặc, thú dữ , lập tức hội đủ cháu, con đến truyền rằng “Khi thiên hạ gặp nạn binh đao, đây sẽ là nơi khai sơn lập hướng, giải giáp quy điền” Ngày 3 tháng 4 Năm Ất Mão (1795) đời vua Cảnh Thịnh thứ III ông mất hưởng thọ 68 tuổi. Đến năm Cảnh Thịnh - thứ IX tức năm Nhâm Tý (1802) (11) thực hiện lời di huấn của cụ các con, cháu trong dòng tộc đã mang toàn bộ gia quyến từ Tuy Động(12) về Hữu Văn ngày nay lập nghiệp.
Sách Tứ khố toàn thư viết : “Vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ, ấm hà tư nguyên, cương thường thiên cổ” (Mọi vật tự trời sinh, mọi người đều có tổ, uống nước phải nhớ nguồn, đó là đạo cương thường vạn cổ). Xuất phát từ đạo lý đó vào năm Tự Đức thứ XIII (1860) trên nền đất Tổ tiên khởi nghiệp con cháu trong dòng họ đã đóng góp xây dựng lên nhà thờ tổ với năm gian chính điện cùng hai tòa hành lang Tả mạc (tổng cộng là 15 gian) số tiền xây dựng là rất lớn! Một người con dâu trong họ tên Nguyễn Thị Thược đã cung tiến cho dòng họ 60 quan(13) cùng bảy sào ruộng tốt để góp phần cùng dòng họ xây dựng và chăm lo việc hương hỏa về sau. Đến năm Thành thái thứ XII (1900) Phương đình phía trước chính điện (còn gọi là thêu hương) được xây thêm để các cụ bô lão trong họ ngồi bàn bạc việc họ và tiếp khách thập phương về kính tổ đây được coi là lần trùng tu thứ nhất. Năm Bảo Đại thứ XIV (1939) nhà thờ tiếp tục được tu sửa lần thứ hai đồng thời khắc bia, ghi danh một số người có công trạng với dòng họ. Tại thời điểm này đồng loạt những người trong họ chuyển đổi từ Phùng Đình sang Phùng Xuân đây cũng là một câu hỏi lớn mà đời sau luôn mong mỏi tìm ra lời giải.
Nhờ ân đức của Tổ tiên quang chiếu dòng Họ Phùng ngày nay đã phát triển thành 5 chi lớn và các ngành, nhánh nhỏ, số trai đinh lên tới hàng nghìn. Trải qua không ít những biến cố, thăng trầm của lịch sử. Nhiều thế hệ con cháu trong dòng họ vẫn lưu giữ, phát huy được truyền thống tốt đẹp của cha ông, liên tục cống hiến sức lực, trí tuệ, mồ hôi, xương máu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhà thờ họ nơi thờ tự cụ tổ đã từng là nơi nuôi dấu cán bộ kháng chiến chống thực dân. Những năm giặc Mỹ ném bom đánh phá Thủ đô đây lại là địa điểm cưu mang đồng bào, học sinh, sinh viên thủ đô về sơ tán, học tập. Nhiều thế hệ con người sau khi thành danh đã thường xuyên trở lại Hữu Văn, thăm nhà thờ tổ họ Phùng để tỏ lòng biết ơn và tri ân dòng họ. Nhờ những đóng góp to lớn với quê hương, với cộng đồng Ngày 20 tháng 5 năm 2004 đền thờ cụ tổ được công nhận là di tích lịch sử văn hóa theo Quyết định số 546/QĐ/UB của UBND Tỉnh Hà Tây, khởi tổ Phùng Đình Nghĩa được công nhận là Danh nhân văn hóa.
“Hoàng đồ củng cố, quốc hữu sử thư. Tổ đức lưu huy, gia tồn phả chí” (Đất nước có sử sách, biên cương được củng cố. Nhà có gia phả lưu giữ phát huy công đức tổ tiên). Gia phả là Gia sử - Lịch sử của dòng tộc cần được ghi chép, lưu giữ cho muôn đời sau; giúp cho đời đời cháu con thấy được ân sủng của ông bà, biết gốc tích gia tộc, biết truyền thống đạo lý của tổ tiên. Để thân thuộc chẳng bị lu mờ, giai hệ ngày càng được minh chứng, công đức của người xưa trong dòng họ được nhắc nhở; giúp anh em thân tộc đầm ấm sum vầy, từ sơ hóa thân, từ xa hóa gần, giúp mọi người cùng dòng máu chung lo việc phụng hiếu và giúp đỡ nhau.
Họ ta từ khi khởi dựng đến nay đã hơn mời đời con con, cháu cháu như cây có ngàn cành muôn lá, như nước có lắm lạch nhiều sông. Sự phát triển không ngừng đó đã được các thế hệ ông bà truyền lưu, ghi chép. Nay! học theo người xưa nhằm ngày Hoàng đạo sao lục lại để đời đời cháu con hiểu biết về nguyên lưu dòng họ.
Ngày 11 tháng 11 năm 2011 nhằm ngày 26 tháng 10 năm Tân Mão.
Hậu duệ đời thứ XII
Kính bút
Ghi chú:
(1)Tuần phủ (Quan phụ trách một Tỉnh nhỏ - Tỉnh lớn do Tổng đốc phụ trách; (2)Doanh đầu tinh (tên gọi khác của Thiên cẩu ), (3)Cuồng Thỉ - theo “Binh thư yếu lược” đây là hai sao báo điềm dữ trong việc quân cơ; (4) (5) Thái Âm và Mộc Đức là những sao chiếu mệnh; (6)Minh đường -Huyệt long mạch; (7) Thanh Long - thế đất bên trái Minh đường; (8)Bạch Hổ - thế đất bên phải Minh đường; (9)Huyền Vũ (Đồi phía sau Minh đường; (10)Châu tước-Gò phía trước Minh đường;(11)Sự tích “Giải giáp quy điền” của khởi tổ có liên quan tới sự kiện năm Nhâm Tý (1802) nhà Tây Sơn sụp đổ bắt đầu thời kỳ Nhà Nguyễn trị vì đã thực thi nhiều biện pháp áp bức đối với quan lại thời Tây Sơn gây nhiều oán thán;(12) Tuy Động nay là Tốt Động-nơi có dòng Ninh Kiều nhuốm máu sáu vạn quân Minh bởi nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo trong “Bình ngô đại cáo” Nguyễn Trãi viết“ Ninh kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm, Tuy Động thây phơi đầy nội nhơ để ngàn năm” đây cũng là quê hương của Thám hoa 14 tuổi Đăng Ma La; (13) Đơn vị tiền tệ thời phong kiến.
PHẦN II
DI TÍCH THỜ DANH NHÂN PHÙNG ĐÌNH NGHĨA
CHƯƠNG I:
GIỚI THIỆU VỀ DI TÍCH
I. TÊN GỌI.
Thôn Đông Viên, Xã Hữu Văn – Chương Mỹ - TP Hà Nội có một di tích cổ, được xây dựng trên thế đất cao ráo ở trung tâm thôn để thờ vị Thủy tổ của Họ Phùng Xuân (Đình) làng Hữu Văn. Từ lâu di tích đã là trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của họ Phùng Xuân - một dòng họ có số lượng chiếm đa số trọng cộng đồng dân cư nơi đây. di tích được mang tên Nhà thờ Danh nhân Phùng Đình Nghĩa hay được gọi với tên khác là đền thờ Họ Phùng, tên chữ “Phùng tộc từ đường”.
II. ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ - ĐƯỜNG ĐẾN DI TÍCH.
Địa điểm phân bố:
Theo tên sách làng xã Việt Nam viết đầu thế kỷ XIX do viện Hán Nôm dịch và xuất bản năm 1996 thì Hữu Văn là xã thuộc Tổng Mỹ Lương – huyện Chương Đức – Phủ Ứng Thiên trấn Sơn Nam Thượng. Xã Hữu Văn xưa là xã Mỹ Lương An gồm tổng thể của hai xã Hoàng Văn Thụ và Hữu Na. Sau khi hòa bình lập lại đơn vị hành chính xã Mỹ Lương An được tách ra thành xã Hoàng Văn Thụ và xã Hữu Văn. Nhà thờ danh nhân Phùng Đình Nghĩa thuộc về thôn Đông Viên của xã Hữu Văn.
Địa giới hành chính xã Hữu Văn: Phía Đông giáp xã Mỹ Lương, Tây giáp Hoàng Văn Thụ, phía Nam giáp xã Trần Phú, phía Bắc giáp xã Tốt Động.
Đường đến khu di tích.
Nhà thờ họ Phùng cách thị xã Hà Đông chừng 18km về phía Tây Nam. Từ thị xã Hà Đông theo đường QL6 chúng ta tới huyện lị Chương Mỹ. Rẽ trái qua ngã ba Chúc Sơn đến đường nội thị Yên Sơn đi khoảng 1200m rẽ phải theo đường huyện lộ (Nguyễn Anh Trỗi) đi Miếu Môn, trong khoảng 8km thì đến địa phận xã Hữu Văn. Gặp thôn Đông Viên ở bên trái đường, đến giữa thôn có đường bê tông và biển chỉ dẫn vào khu di tích “Phùng tộc từ đường”
Đường đi tương đối thuận lợi cho mọi phương tiện giao thông đường bộ.
III. LOẠI HÌNH DI TÍCH
Nhà thờ Tuần phủ, Nha thọ úy, giám sát nhị sứ Văn thọ nam Phùng Đình Nghĩa ở xã Hữu Văn-Chương Mỹ-Hà Nội là nơi thờ tự ông và phu nhân là bà Nguyễn Quý Thị. Đây là một công trình ghi lại dấu ấn của truyền thống thờ phụng tổ tiên, đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam. Xét về mặt giá trị văn hóa của di tích thì: Di tích đã được UBND Tỉnh Hà Tây công nhận là di tích lịch sử văn hóa theo Quyết định số: 546/QĐ-UB ngày 20 tháng 5 năm 2004 của UBND Tỉnh Hà Tây V/v Xếp hạng di tích lịch sử văn hóa và được coi là “DI TÍCH KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT DẠNG NHÀ THỜ DANH NHÂN”
CHƯƠNG II
GIỚI THIỆU KIẾN TRÚC NHÀ THỜ
I. KHẢO TẢ DI TÍCH
1. Sơ lược di tích.
Nhà thờ danh nhân Phùng Đình Nghĩa là một di tích lâu đời có niên đại hàng trăm năm, nằm ở Phía Đông thôn Đông Viên. Mặt trước chính điện nhìn về hướng Đông Đông Nam. Bố cục kiến trúc chính theo kiểu chữ Nhất gồm các hạng mục công trình tiêu biểu: Hậu đường, Thêu hương, Tả Mạc, Hữu Mạc, Sân, và hệ thống cửa Nghi Môn.
2. Các hạng mục chính.
a- Nghi môn:
Từ ngoài đi vào ta bắt gặp nghi môn của Nhà thờ được xây dựng bằng vôi vữa theo kiểu tam quan, trồng diêm hai tầng, tám mái đao cong, lối đi chính được làm ở giữa to hơn, hai bên là hai cổng pháo làm nhỏ và hẹp hơn. Ngăn cách giữa mái trên và mái dưới của nghi môn chính là một bức tường ngăn. Trên bức tường này có ghi bốn chữ hán “Phùng tộc từ đường” trên thân các cột của nghi môn có ghi các câu đối chữ hán với nội dung ca ngợi công trạng, dòng dõi và cảnh đẹp của nhà thờ.
b. Khuôn viên di tích:
Bước qua cửa nghi môn là toàn bộ khuôn viên của di tích. Phóng tầm mắt qua khoảng sân rộng là một hạng mục công trình kiến trúc cổ bề thế với những nét cong mềm mại, nhẹ nhàng. Buổi sáng khi mặt trời vừa lên những tia nắng lấp lánh trên đầu đao của thêu hương hòa quyện cùng tiếng chim ríu rít, rộn ràng tạo cho chúng ta một cảm giác xốn sang khó tả.
Chiều về mùi hương hòa cùng khói lam chiều làm lên một không gian tĩnh mịch, thanh tịnh của làng quê khi đó toàn bộ khu di tích trông thật lộng lẫy, uy nghi đến lạ kỳ.
c. Thêu hương:
Một biến thể dạng Phương Đình là một công trình kiến trúc bằng gỗ có hình vuông. Nhìn từ bên ngoài tòa thêu hương được làm hai tầng tám mái đao cong. Trên các đầu đao cong vút là linh vật Xi vẫn cùng họa tiết hoa chanh được đắp cẩn thận, mềm mại, thể hiện ý chí, mong muốn của người xưa về sự trường tồn của công trình đồng thời làm giảm đi sự nặng nề của mái.
"Xi vẫn đảo miên phương kính lãnh
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn"
(Hình xi vẫn ngủ ngược trên gương nước lạnh
Đôi bóng tháp thon vút như ngón tay ngọc giá băng)
Ở giữa bờ nóc đắp một mặt trời lửa, hai đầu bờ nóc đắp hai con rồng được làm biến thể kiểu rồng MaKaRa ngậm bờ nóc và chầu vào mặt trời - một biểu tượng mà chỉ thấy ở đền thờ vua quan thời phong kiến.
Ngoài các cấu kiện giằng co trên kiến trúc thì phần chịu lực chủ yếu của di tích là hai bộ vì nằm trên mặt phẳng của bốn chân cột. Hai bộ vì này được làm theo thức Ván mê và được cách điệu giống một con hổ phù đang gồng mình đỡ thượng lương và vươn hai chi ra đỡ hệ thống hoành của mái thượng – đây là kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu của thời Nguyễn thế kỷ XIX-XX. Điều này hoàn toàn trùng khớp với niên đại xây dựng được ghi trên thượng lương “Hoàng triều Bảo đại thập tứ niên ...đại tạo”. phần kết nối giữa hai vòm mái là một hệ thống các con tiện quanh cả bốn mặt mái. dưới chân chạm khắc kiểu “Hồi văn chữ vạn”
Toàn bộ hệ thống kết cấu này được đỡ bởi bốn cột trốn theo thế giằng co. Đỡ các cột trốn là hệ thống các xà lòng, đầu dưới cột trốn là các bông hoa sen kiểu mãn khai. Các đấu kê của toàn thêu hương được biến thể thành các con lân đội. Tất cả có bốn đôi lân được tạo tác rất tỉ mỷ, sắp xếp theo tư thế chầu vào giữa. Về mặt tâm linh thì nó có ý nghĩa kiểm soát linh khí của khách hành hương mặt khác còn thể hiện sự tôn kính và ngưỡng vọng của con cháu đối với người khởi sinh dòng tộc.
Ngoài ý nghĩa về mặt kiến trúc tòa thêu hương còn để lại ý nghĩa tâm linh to lớn. Rất nhiều học giả nghiên cứu về kiến trúc và tâm linh cho rằng: Kiến trúc này là sự hòa quyện của triết lý Phật học và yếu tố dịch học-nho giáo. Cả tòa thêu hương (phương đình) tượng trưng cho thái cực – mái trên nhẹ là dương, mái dưới to, nặng là âm; bốn phía mái là tứ tượng; tám mái là bát quái... đúng như trong kinh dịch viết:
Vô Cực sinh Thái Cực
Thái Cực sinh Lưỡng Nghi
Lưỡng Nghi sinh Tứ tượng
Tứ Tượng sinh Bát Quái
Bát Quái biến hóa ra vô cùng tạo lên sự viên mãn đem tới hạnh phúc vĩnh cửu cho con người và dòng họ.
d. Hậu đường:
Hậu đường gồm: ba gian, hai dĩ nhỏ, hai mái chảy và thuộc dạng kiến trúc nội tự ngoại khách (phần hè của di tích được làm rất rộng với mục đích để tiếp khách còn bên trong dùng để thờ tự). Nhìn từ bên ngoài bờ nóc, bờ chảy làm theo kiểu bờ đinh, chính giữa bờ nóc đắp đôi rồng lá chầu vào một bầu rượu (bầu rượu, túi thơ xưa nay thường gắn với các triết lý Nho giáo, với những biểu tượng về văn chương. Điều này dễ hiểu bởi nhân vật được thờ là một Tuần phủ, một Nha thọ úy, giám sát nhị sứ và là mộtVăn thọ nam.
Bên trong tòa hậu đường, hệ thống khung bộ vì đỡ mái được làm bằng gỗ theo hai kiểu thức khác nhau. Hai bộ vì gian giữa theo thức Thượng trồng rường con nhị, hạ tiền rường nách, hậu kẻ truyền, bẩy, trên mặt bằng bốn hàng chân cột gỗ. Nối hai đầu cột cái là câu đầu, trên lưng câu đầu đội hai con rường. Rường trên cùng đội thượng lương qua một đấu hình thuyền.
Phía trong Hậu đường có xây một bệ gạch kiểu tam cấp dùng để bài trí đồ thờ cúng.
Bia thờ bên trong Hậu đường: Bia thờ viết bằng chữ hán ghi lại công trạng của danh nhân Phùng Đình Nghĩa và được gắn cố định vào tường.
e. Tả mạc, và hữu mạc:
Tả mạc và hữu mạc là hai tòa nhà được bố trí bên phải và bên trái thêu hương. Cả hai đều được xây dựng ba gian hai mái chảy, tường hồi bít đốc. Các bộ vì được làm thống nhất theo thức thượng giá chiêng chồng rường con nhị, hạ kẻ bẩy trốn hàng cột cái. Cách thức kết cấu trên kiến trúc cũng được tạo tác giống như ở hậu đường.
II. CÁC HIỆN VẬT CÓ TRONG DI TÍCH
1. Di vật đá.
Hiện nay tại khu di tích đền thờ Họ Phùng còn lưu lại 04 tấm bia đá lớn.
- Bia đá gắn ở mặt tiền tường nhà Hậu đường, nội dung bia viết bằng chữ hán có kích thước 95cm x 50cm, chán bia cao 40cm, diềm 4cm, nội dung trong bia có ghi niên đại nhà Nguyễn “Hoàng triều Bảo Đại thập tứ niên-năm Bảo Đại thứ 14”.
Bia đá gắn ở tường tòa Hữu mạc, nội dung bia viết bằng chữ hán có kích thước 95cm x 55cm có tên “Chư tôn hữu ký” có cùng niên đại với bia đá thứ nhất.
- Bia đá gắn ở tường tòa Tả mạc có kích thước 95cm x 57cm cũng có niên đại nhà Nguyễn “Hoàng triều Thành Thái thập nhị niên-năm Thành Thái thứ 12”
- Cuối cùng là một bia thờ có tên “Chiêm giả khởi kính”. Kích thước 90cm x 55 cm, chán bia cao 13cm, diềm bia rộng 5cm niên đại “Hoàng triều Thành Thái thập nhị niên-năm Thành Thái thứ 12”
2. Di vật gỗ.
Tại đây chúng ta thấy được rất nhiều hiện vật bằng gỗ quý còn được lưu giữ:
- Một mâm thờ có kích thước: cao 47cm rộng 56 cm, sơn son thiếp vàng kiểu chân quỳ dạ cá, đục trạm trang trí hoa vă tỉ mỉ, công phu có niên đại thời Nguyễn.
- Một khám thờ cao 100cm, rộng 50 dùng để thờ bà Nguyễn Quý Thị - phu nhân của cụ Phùng Đình Nghĩa. Căn cứ vào hoa văn, họa tiết trang trí trên khám thờ này thì niên đại thuộc thời Khải Định.
Cùng với những di vật trên còn có những di vật khác như: 01 giá sơn son thiếp vàng cao 48cm rộng 46cm; 01 bộ chấp kích ũng được sơn son thiếp vàng rất đẹp, đặc biệt tại đây còn có 06 đôi cấu đối rất hay viết bằng chữ hán.
Các đôi câu đối lần lượt có nội dung:
Đôi câu đối thứ nhất:
“Vĩnh thụ tuấn thanh tiền súy xứ khai cơ hậu mai đình tiếp vũ
Nhật tăng hồng phúc hoành sơn thạch bất ma bùi giang lưu ích viễn”
Đôi câu đối thứ hai:
“Cổ tiên lai tứ phẩm Lê triều bốc cư ngô thổ
Thiền kế diễn thiên niên Phùng thị minh tự từ đường”
Đôi câu đối thứ ba:
“Tuy Động giang lưu súy xứ ân
Sao sơn thạch ký Lê triều sắc”
Đôi câu đối thứ Tư :
“Nhất bản truy tư tối đại huân danh vinh súy phủ
Ngũ tri kế phát hữu dư phúc khánh tụy Phùng môn”
Đôi câu đối thứ năm:
“Trạch cập thiên thu bùi nhuận thủy
Đường lưu vạn tự sáo cao phong”
Đôi câu đối thứ sáu:
“Tộc vọng trường lưu thiên túy phả
Đức càn sơ phát ngũ chi hoa”
Trong đền thờ còn hai bức hoành phi trạm trổ công phu, sơn son thiếp vàng có nội dung: “Đồng tôn kính” và “Nguyên hữu chi thủy”
Ngoài những hiện vật đã nêu thì di tích đền thờ họ Phùng để lại một kho tàng đồ sộ những hiện vật bằng gỗ, đá có giá trị khác. Ngoài giá trị văn hóa tiêu biểu đây còn là nơi lắng đọng lịch sử, kiến trúc và chứa đựng cả các tài năng văn hóa, nghệ thuật một thời.
* CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Danh nhân quê hương Hà Tây;
2. Chương Mỹ xưa và nay;
3. Lịch triều hiến chương loại chí;
4. Đại Nam nhất thống chí - NXBKHXH;
5. Việt sử thông giám cương mục - NXB sử học Hà Nội 1960;
6. Cuốn Thừa sao nguyên phả - 1860 của cụ Phùng Đình Tỉnh hậu duệ đời thứ VIII của khởi tổ Phùng Đình Nghĩa và các tư liệu hán nôm khác có trong khu di tích.
PHẦN III
GIỚI THIỆU NGHI THỨC THỜ CÚNG
I. CÁC NGÀY LỄ CHÍNH.