HỌ PHÙNG TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ
(KHÁI LƯỢC)
Tiến sĩ Phùng Thảo
Dân tộc Việt Nam có mấy trăm dòng họ (trong cuốn sách Gia phả, NXB Văn hóa dân tộc năm 1998 có ghi: Việt Nam có 207 dòng tộc, còn trong cuốn sách Tông phả kỷ yếu Tân biên, NXB Văn hóa dân tộc (tác giả Phạm Côn Sơn năm 2006) có ghi: Việt Nam có 576 dòng tộc). Họ Phùng Việt Nam là một dòng họ Việt trong mấy trăm dòng họ nói ở trên. Đến nay chưa có một công trình khoa học, một văn kiện tổng kết được công bố chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về số nhân khẩu (dân số) của mỗi dòng họ Việt Nam. Có ý kiến cho rằng, hơn 10 dòng họ lớn ở Việt Nam chiếm khoảng 80% dân số, 20% dân số còn lại thuộc nhân khẩu của mấy trăm dòng họ.
Trong buổi bình minh của đất nước, các vị tiền liệt của họ Phùng Việt Nam đều có gốc Sơn Tây. Sau này, trong 8 vị họ Phùng đỗ Đại khoa Tiến sĩ thời phong kiến từ thế kỷ thứ 15 đến thế kỷ thứ 18, có 5/8 vị quê ở tỉnh Sơn Tây, 1/8 vị quê tỉnh Hà Đông, 1/8 vị quê tỉnh Hưng Yên, 1/8 vị quê tỉnh Vĩnh Phúc, 1/8 vị quê tỉnh Bắc Giang. Trong số 11 vị họ Phùng đỗ cử nhân thế kỷ thứ 19, thì số đông quê tỉnh Hà Đông và tỉnh Sơn Tây. Gần đây, Niên giám tổ chức hành chính Việt Nam 2004-2005 và năm 2009 của Bộ Nội vụ và Viện Khoa học Tổ chức nhà nước đã công bố kết quả những người trúng cử Chủ tịch UBND xã trong cả nước đầu thập kỷ của thế kỷ XXI, trong đó có người họ Phùng như sau: Hà Nội (gồm Hà Nội xưa, Hà Đông, Sơn Tây) có 16 xã, Hà Giang 1 xã, Phú Thọ 4 xã, Cao Bằng 2 xã, Bắc Kạn 1 xã, Tuyên Quang 3 xã, Lào Cai 1 xã, Lai Châu 1 xã, Yên Bái 4 xã, Thái Nguyên 1 xã, Lạng Sơn 2 xã, Quảng Ninh 3 xã, Hải Phòng 2 xã, Bắc Giang 2 xã, Vĩnh Phúc 2 xã, Bắc Ninh 1 xã, Hưng Yên 1 xã, Thái Bình 1 xã, Hà Nam 1 xã, Nam Định 2 xã, Ninh Bình 2 xã, Thanh Hóa 1 xã, Nghệ An 1 xã, Hà Tĩnh 1 xã, Quảng Bình 1 xã, Đà Nẵng 1 xã, Bình Định 1 xã, Khánh Hòa 2 Xã, Bình Thuận 1 xã, Lâm đồng 1 xã, Bình Phước 1 xã, TP Hồ Chí Minh 1 xã, Long An 1 xã. Căn cứ vào các tài liệu trên, kết hợp nghiên cứu các tài liệu khác như: Lịch sử họ Phùng Việt Nam tập I, tập II... Qua điền dã ở một số địa phương, nghiên cứu về họ Phùng ở một số địa chỉ: Xã Đường Lâm, thị trấn Tây Đằng, xã Phùng Xá, xã Bát Tràng, thị trấn Như Quỳnh, đình làng Triều Khúc, đình làng Quảng Bá, nhà thờ họ Phùng ở Thọ Am xã Liên Ninh (Thanh Trì), đình Kim Mã, lăng Bố Cái Đại Vương ở phường Cát Linh, họ Phùng và lăng Thái phó Phùng Tá Chu ở thị trấn Tây Đằng, nhà thờ họ Phùng ở xã Chu Minh, nhà thờ họ Phùng ở xã Yên Luật, tỉnh Phú Thọ, họ Phùng ở làng Nôm tỉnh Hưng Yên, họ Phùng ở xã Thái Sơn và phường Nam Hải thành phố Hải Phòng, họ Phùng ở thị trấn Ngô Đồng tỉnh Nam Định, nhà thờ họ Phùng ở xã Nam Cường, huyện Nam Đàn, xã Nghi Thu thị xã Cửa Lò, xã Phú Thành huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An, họ Phùng và nhà trưng bày nghệ thuật ở số 1 Phan Bội Châu thành phố Huế, nhà thờ họ Phùng ở phường 9 thành phố Vĩnh Long. Từ đó có thể suy ra, họ Phùng Việt Nam là dòng họ không lớn, số nhân khẩu không đông, nhưng họ Phùng Việt Nam lại được hình thành từ khá lâu đời - từ thời Hùng Duệ Vương thứ 18. Trong buổi đầu dựng nước và giữ nước của dân tộc, họ Phùng Việt Nam có thể đã định cư, sinh sống chủ yếu ở vùng đất trung tâm của nước Đại Việt, đó là đất Sơn Tây, Phú Thọ, Hà Đông, Hà Nội, Vĩnh Phúc ngày nay. Trải qua các cuộc chiến tranh, qua quá trình mở rộng biên cương của đất nước về phía Nam, quá trình di cư tự do, quá trình hôn phối giữa các dòng họ qua các thời đại, và ngày nay qua chủ trương xây dựng vùng kinh tế mới… người họ Phùng đã di chuyển sinh sống ở khắp các vùng miền Bắc - Trung - Tây Nguyên - miền Nam, và ở ngoài nước. Căn cứ truyền thuyết còn lại, thế kỷ VII-VIII trước Công nguyên đã xuất hiện các dòng họ:
Họ Nguyễn Tuấn, tức Sơn Tinh, Tản Viên sơn thánh.
Họ Trần Giới, Trần Hà - hai tướng của vua Hùng.
Họ Lý Tiến, một tướng của vua Hùng.
Họ Mai An Tiêm.
Họ Cao Lỗ, một tướng của vua Hùng.
Họ Phùng Đại Lực, Hộ Quốc đại vương, một tướng của Hùng Duệ Vương, và nhiều dòng họ khác.
Theo dòng lịch sử, các dòng họ Việt đều có chung một gốc, đó là từ một bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ. Vị tổ đầu tiên của các dòng Việt là Lạc Long Quân và Âu Cơ. Từ trước Công nguyên - Hùng Duệ Vương, đã có ông Phùng Đặng và vợ là bà Lưu Thị Tuấn là người đức hạnh ở làng Thung Xá, huyện Đông An, phủ Khoái Châu, đạo Sơn Nam sinh ra một người con trai, “cha mẹ đặt tên là Lực, cho theo học thầy Hiên Đường. Chỉ mấy năm mà văn chương thấu suốt nơi cửa Khổng Mạnh, tài thao lược đâu kém Tôn, Ngô. Từ thiên văn, địa lý, nhân sự đều am tường, ai ai cũng coi là thánh đồng, bạn bầu cùng lứa đều thán phục tài nghị luận”[1]. Năm 40 sau Công nguyên, có nữ thần tướng Phùng Thị Chính, đã phất cao ngọn cờ nương tử theo Hai Bà Trưng đền nợ nước trả thù nhà; nữ thần tướng song sinh Phùng Thị Tú, Phùng Thị Huyền (Ả Tú, Ả Huyền) là hai chị em song sinh ở thôn Rau Cốc chiêu mộ binh sĩ góp sức theo Hai Bà Trưng cứu nước; năm 528 có Hữu tướng quân Phùng Thanh Hòa; Bố Cái Đại Vương - Phùng Hưng thế kỷ thứ VIII năm 791; Thái phó lưỡng triều Lý - Trần Phùng Tá Chu thế kỷ XIII; dưới thời Lê Thái Tổ có Phùng Nhậm làm đến Tả thị lang; thế kỷ thứ XV, có Giám nghị đại phu Phùng Tiến Đạt và con gái là Phùng Thị Thục Giang sau này là Hoàng hậu Phùng Thị Thục Giang; năm 1528-1613, thời Lê có Thái tế mai quận công Hoàng Giáp - đệ nhị Giáp tiến sĩ Phùng Khắc Khoan, và nhiều nhà khoa bảng, trí thức họ Phùng trong các triều đại phong kiến có đức, có tài đã đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ và chấn hưng đất nước. Nối tiếp truyền thống các bậc tiền nhân họ Phùng, từ đầu thế kỷ XX đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta đã trải qua nhiều cuộc kháng chiến lâu dài anh dũng chống giặc ngoại xâm và trong sự nghiệp xây dựng chấn hưng đất nước, các thế hệ người họ Phùng tiếp tục đồng hành cùng bách họ Việt Nam đóng góp mồ hôi, xương máu, vật lực, tài lực, trí tuệ… cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, và xây dựng CNXH trên đất nước Việt Nam. Trong bài viết này do hạn chế về nguồn tư liệu và còn nhiều khó khăn khác chưa thể vượt qua, tác giả bài viết mới tập hợp và chỉ có thể giới thiệu được một số thông tin dưới đây.
CÁC BẬC TIỀN NHÂN HỌ PHÙNG TRƯỚC CÔNG NGUYÊN, SAU CÔNG NGUYÊN VÀ THỜI PHONG KIẾN.
Đại tướng quân Phùng Lực - Thời Hùng Duệ Vương thứ 18[2].
“… Ngày tốt tháng trọng xuân năm Kỷ Tỵ
Phả ghi chép về Công thần đại lực Hộ Quốc đại vương triều Hùng Duệ Vương. (Bộ thứ 2 hàng Thượng đẳng thần, chi Khảm), theo bản chính ở Bộ Lễ quốc triều.
Nước Việt xưa, trời Nam khởi vận, núi non sông biển phân giới ở địa phận sao Dực, Chẩn. Đất nước thủơ mới phân phong chạy thẳng theo hướng địa phận sao Đẩu sao Ngưu.
Từ thời triều Hùng khởi vận, các bậc thánh tổ gánh vác cơ đồ, một dòng nước biếc, các đời khởi Thánh đế đều là bậc minh vương. Núi xanh vạn dặm, cơ đồ thành đô cung điện được khai sáng. Mở mang muôn vật, cứu vớt muôn dân, thống trị 15 bộ, thế lực đại vượng hùng mạnh.
Các đời vua trị nước có tới hơn 2800 năm, đất nước vững vàng như bàn thạch. Đến đời vua Duệ Vương, lập đô ở vùng gần sông Bạch Hạc (Việt Trì), xây dựng quốc hiệu là Văn Lang, quốc đô là Phong Châu.
Hùng Duệ Vương là bậc đại lực hùng tài, tư chất kiêm thánh triết, kế nghiệp xây dựng, bồi đắp cơ nghiệp của tổ tiên suốt 17 đời cường thịnh. Bên trong thì tu sửa văn hoá, bên ngoài thì phòng bị bốn phía, tất cả đều tốt đẹp hưng bình, lấy đó yên ổn đất nước.
Đương thời gian đó, ở làng Thung Xá, huyện Đông An, phủ Khoái Châu, đạo Sơn Nam nước Việt ta có một người thi thư quán thế, hiếu đễ truyền gia, họ Phùng tên Đặng; vợ là Lưu Thị Tuấn cả đời tích đức hành nhân, “tam sinh hương hoả”[3].
Một đời phong lưu, yểu điệu xinh đẹp phong thái thư thả có thừa. (Nhưng) trong nhà, gia cảnh bần hàn, lấy nghề y làm nghiệp, cứu nhân độ thế, tạo phúc tu nhân, không mảy may hại người, không tơ hào ham lợi, chẳng chút nghĩ cho riêng mình. Phàm những việc cứu người tạo phúc không việc gì không dốc hết sức thi hành. Con người ta tin rằng hành thiện tất sẽ được báo đáp.
Một hôm trời trong xanh gió mát, hai vợ chồng Phùng công cùng ngồi trước sân nhà, uống rượu gảy đàn, rượu ngọt ngà ngà say, tự nhiên chìm vào giấc mộng, rồi bỗng thấy có ánh sáng màu đỏ rực khắp nhà, lại thấy có con rồng vàng tựa như con thằn lằn xuất hiện, biến hóa thành một đôi khổng tước. Khi tỉnh dậy mới biết đó là giấc mộng Hoàng Lương[4]. Từ đó[5] (bà họ Lưu mang thai. Trong suốt thai kì cho đến kì mãn nguyệt khai hoa bà thường nghe thấy tiếng thầm đọc rằng: đại tài trời định, sẽ giáng thần đầu thai), do thần tác thành, tài năng siêu quần hơn người thường, văn chương quán triệt, võ giỏi thao lược. Vào ngày mùng 9 tháng 3 tiết xuân năm Giáp Dần, đang lúc đêm xuống vợ chồng Phùng công cùng ngồi trước sân, đến nửa chừng canh ba, mơ màng tựa như chìm vào giấc mộng, bỗng bên tai thấy có tiếng nói rằng: Cha hề mẹ hề, phụng mệnh thiên đình đầu thai vào cha mẹ nhà ta. Con mong được mở cửa. Phùng công run rẩy trở dậy, ra ngoài mở cửa. Nhìn ra bốn phía không thấy bóng dáng người nào. (Ông) bái vọng, ngước mặt nhìn trời cao, chỉ thấy trăng trong gió mát. Duy có một đám mây màu vàng từ phía Tây bay tới. Phùng công thấy thật kì lạ, rồi trở vào trong nhà. Trong khoảnh khắc ấy thì bà Lưu thị lâm bồn. Đến giờ Dần ngày 10 tháng 3 bà Lưu thị sinh hạ được một bé trai
Thần phong tuấn tú nghiêm nghị, phong thái khôi ngô kì lạ, hơn hẳn người thường. Năm lên 16 tuổi, (cậu bé) đã có sức mạnh nhấc nổi đỉnh lớn, bạt nghiêng núi. Cha đặt tên cho là Lực Công.
Lúc cậu bé lên 8 tuổi đã được cha cho theo học cụ Hiên Đường tiên sinh. Học được vài năm mà cậu bé đã có văn chương quán triệt, năng lực ghi nhớ hết cả chữ trên tường nhà Khổng (Tử), Mạnh (Tử), tứ khóa tam khôi không gì không thuộc. (Võ) giỏi thao lược Tôn Ngô[6]. Phàm tất cả việc trên trời cho đến địa lý dưới đất không việc gì là không biết; không vật gì mà không hiểu. Người thời đó đều gọi ông là Thánh Đồng. Ông đặc biệt giỏi cung tên, thích đọc binh pháp. Lúc nào có thời gian đều ngồi đàm đạo bàn nghị, khiến tất cả bạn hữu không ai không kinh ngạc và kính phục. Ông thường nói rằng: Làm người, từ xưa đến nay, các bậc thánh hiền đều phải lập được công danh; không tới chốn sa trường, lấy da ngựa bọc thây thì cũng coi như đồ hỏng. (Làm được những việc như thế) mới là kẻ đại trượng phu có gan lớn. Nhân đó ông làm một bài thơ rằng:
Nhĩ mục tu mi thiên phú chi,
Công danh, sự nghiệp chính đương kì,
Vi nhân tử giả đương như thị
Khứng tác sa trường cách cổn thi.
Tạm dịch:
Tai, mắt, râu tóc trời đã phú cho
Công danh sự nghiệp lúc đương thì
Làm người chí trai đương như vậy
Sao chẳng làm da ngựa bọc thây.
Đến khi ông 20 tuổi, cơ hồ vận trời đã làm ra như vậy ư?!!! Chỉ trong một năm mà cả cha và mẹ ông đều nối tiếp nhau qua đời. Lực Công gào khóc gọi trời xanh, nhưng vận trời đã định làm sao có thể níu kéo được!.
Thế là ông bèn chọn nơi đất tốt rồi hành lễ mai táng, hương hỏa trong nhà phụng thờ suốt ba năm ròng. Ông vẫn thường than rằng: Cha mẹ có công ơn dưỡng dục sinh thành. Ta vô cùng sót thương cha mẹ. Công lao dưỡng dục, nay tình cảnh hóa ra như vậy mà vẫn chưa có mảy may báo đáp. Ngày sau dẫu có muôn chung vạn tứ[7] những mong xin được báo đáp chăng?
Từ đó ông thường nuôi chí lớn, đàn hạc trăng thanh gió mát, chu du khắp nơi từ chân trời tới góc bể, từ vùng núi tới đồng bằng, những nơi nào thôn dã thoáng rộng cùng lặn lội tìm đến. Cũng có lúc dạo chơi nơi dòng sông bến nước, có lúc lại đội trăng trong theo dòng nước chảy xuôi.
Một hôm, Lực Công nghe thấy ở vùng động Lăng Sương huyện Gia Hưng phủ Hưng Hóa đạo Sơn Tây có vị Tản Viên Sơn Thánh, có nhiều phép biến hóa thần thông, kẻ sĩ trong thiên hạ đua nhau kéo về học tập. Lực Công bèn tìm đến yết kiến Sơn Thánh. Sơn Thánh nhìn thấy ông, văn võ song toàn, thông minh dĩnh ngộ, là một trong những bậc tuất kiệt nên tôn trọng, tiếp đón ông như thượng khách, khoản đãi hậu hĩnh.
Lại nói, lúc đó cơ nghiệp vua Hùng đã sắp hết, ý trời đã cáo chung. Nhà vua sinh được 20 Hoàng tử và 5 công chúa nhưng tất cả đều lần lượt trở về với quê hương của đế, chỉ còn có hai công chúa: Người thứ nhất tên là Tiên Dung Công chúa, đã gả chồng là người cùng quê với Lực Công[8]. Người đó tên là Chử công Đồng Tử. Còn Công chúa thứ hai là Ngọc Hoa công chúa, trăng tròn đến độ, mặt ngọc chánh phong, trong sáng đoan trang lương duyên tốt đẹp, nhưng quế hoè chưa định. Duệ Vương bèn cho xây lầu ở cửa thành Việt Trì, ban chiếu chỉ cho thần dân trong thiên hạ, ai thông minh tài trí, đức độ anh hùng để định kế gả chồng cho công chúa và nhường ngôi cho.
Ngày hôm đó, trên sông tầu thuyền đậu kín, dưới lầu xe ngựa hàng vạn dăng hàng, văn chương múa bút như rồng bay phượng múa, sao sa sông lạnh. Võ trận tung hoành như hổ báo hồn kinh, sấm vang chớp động lôi đình. Chân trời góc bể, anh hùng trong bốn biển đều được thi thố nhưng đều thất bại, lục tục kéo nhau ra về, chưa có vị nào được toàn tài, xứng đáng như trong chiếu chỉ thông báo. Bài thơ Đào yêu[9] chưa có người cùng ngâm câu cầm sắt. Người đời sau có thơ nói rằng:
Nhất trường gia quốc thôi tình động
Tứ hải anh hùng lão nhan ngung
Bất mịch việt thành xuân toản thược
Nhi thùy khởi thủ vị thùy phong.
Tạm dịch:
Một nhà gia quốc tình sao động
Bốn bể anh hùng mòn mắt trông
Việt Trì thành xuân còn khóa chặt
Ai có thể giang tay mở gió.
Lúc đó, Tản Viên Sơn Thánh nghe thấy chuyện đó mới nói với Lực công rằng: Từ xưa để xứng với giai nhân khó có anh hùng. Huống chi lại còn để lấy được công chúa ư? Nay kinh thành đế nữ[10] thực có vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, ta không quản ngại đường xa mà đến cầu thân. Ta sẽ đích thân đến. Nói xong ngài chầm chậm đến trước lầu. Duệ Vương ngự ở đó xem thi đấu, khi nhìn thấy Sơn Thánh có nhiều tài lạ thông thiên triệt địa, có thể dời núi ngăn sông. Duệ Vương cho rằng đây là bậc kì tài nhất trong thiên hạ nên đã triệu công chúa đến mà gả cho. Sơn Thánh làm lễ bái tạ. Lễ xong rồi rước nàng trở về sơn động sinh sống. Sơn Thánh vẫn giữ Lực Công bên mình để trợ giúp Duệ Vương. Duệ Vương thấy Lực Công dung mạo đường hoàng, lẫm liệt uy phong, ngay ngày hôm ấy cho bái tạ phong tướng quân, cai quản các cánh quân và phong cho hiệu là Đại Lực sỹ tướng quân, thưởng cho không biết bao nhiêu mà kể.
Từ đó trở đi ân đức thánh trạch, mưa móc trời cao, cá nước cơ duyên. Duệ Vương lại cho phép Đại Lực tướng công tuần phong khắp thiên hạ. Trên các đạo từ Lạng Sơn dưới cho đến Quảng Đông. Lực Công phụng mệnh, tuần hành khắp thiên hạ, không nơi nào ông không tuần đến. Tất cả đều ra sức để lại công lao to lớn yên ổn cho dân. Không đêm nào ông không đi canh phòng, kiểm tra; cửa nhà ông cũng không có thời gian qua lại.
Một hôm Lực Công xa giá đến trang Cá Chử huyện Từ Kỳ, Hồng Châu đạo Hải Dương. Lực Công thấy một dòng nước, thế nước rồng ấp, quanh co uốn khúc, sao Phong dẫn mạch, các sao chầu về; bốn bề ôm ấp, rồng cuộn hổ phục, nghĩ rằng đây là nơi thắng cảnh phong quang, bèn ngâm một câu thơ rằng:
Ngân bình ngọc thiếp chu toàn
Cẩm hộ ngọc liêm thứ đệ khai
Hội khí chung thành duy tiểu mạch
Anh cư chân khả kiếm đô doanh.
Tạm dịch:
Vàng che thiếp đỡ thật chu toàn
Nhà gấm rèm ngọc những chu toàn
Hội khí tinh anh thành dòng nhỏ
Đẹp đẽ đất này đúng nơi xây dinh.
Ngay trong ngày hôm đó, ông cho gọi binh sĩ và nhân dân (trong khu) xây dựng hành cung ở ngay bên dòng nước của trang, một bên để làm nơi nghỉ; một bên để làm nơi tiêu dao ngắm trăng trong gió mát, cùng dân vui vẻ. Ông lại dùng nhân nghĩa cố kết lòng dân, lấy hòa mục mà đào luyện thành mỹ tục[11], dạy dỗ nghề nông, trồng dâu nuôi tằm; lấy lợi trừ hại. Nhân dân từ già đến trẻ ở trang Cá Chử đều đội ân ông, coi ông như mặt trăng mặt trời, như cha mẹ của họ vậy.
Lại nói, lúc đó Duệ Vương ở ngôi được 5 năm, Thục Vương (là Bộ chủ bộ Ai Lao, cũng là con cháu chi phái họ Hùng) nghe tin vua Hùng đã già yếu mà 20 người con trai đều lần lượt quy tiên, không có người nối dõi nên đã thừa cơ phát động chiến tranh, cầu viện láng giềng, chỉnh đốn quân đội, binh lính hơn vạn người, ngựa tới tám nghìn, chia làm 5 đạo quân: 1 đạo theo đường Thập Châu, Hoàng Tùng, Quỳnh Nhai ven theo núi đi; một đường từ Minh Linh, châu Bố Chính xuống; một đạo theo đường Lạng Sơn, Tuyên Quang mà đi; một đạo theo đường Hải Dương, Sơn Nam châu Ái xuất quân; một đạo đi theo hướng cửa biển Hội Thống châu Hoan. Quân thủy, lục cùng tiến quân, tiếng tăm vang dội.
Duệ Vương có ý rất lo lắng mới mời Sơn Thánh và Đại Lực Tướng quân cùng đến để tham vấn kế sách. Sơn Thánh và Lực Công đều tâu rằng: Hơn hai ngàn năm, đều là các bậc thánh hiền kế nối suốt 17 đời, tạo ân trạch sâu dày nhân nghĩa rộng khắp, tưởng chừng như gân cốt kề nhau mà nay “quốc phú dân cường”, bệ hạ uy đức vang khắp ngoài bể. Người Thục không tự bảo trọng, dám không khuất phục thì chỉ chuốc lấy thất bại mà thôi. Trong ngày sẽ mang chúng về để cho bệ hạ hỏi tội, muôn dân quy phục. Bệ hạ mà cho công chiến, chớ phải lo lắng gì đánh mà không thắng. Nay chuyện xảy ra, chúng thần nguyện nhận gian lao thay thánh giá, xin thêm 30 vạn quân, Thục Vương bất quá cũng chỉ nửa tháng là bình xong hết.
Duệ Vương vô cùng vui mừng đồng ý cho phép.
Thế rồi vào cáo trong Thái miếu. Duệ Vương thân chinh tay cầm búa giao cho Sơn Thánh, Sơn Thánh cầm búa và nói: Tòng thử thượng chí thiên giả[12]. Sơn Thánh cầm quân chính lại có Đại Lực tướng quân hỗ trợ, chia làm các cánh quân: Phía dưới từ các nhánh sông giao cho các tướng quân phụ trách, còn Sơn Thánh và Lực Công lãnh mệnh tiến quân theo đường bộ, khí thế hừng hực lên đường.
Ngày hôm đó Lực Công dẫn binh trở về trang Cá Chử, lấy ở mỗi họ tộc trong trang Cá Chử vài người để làm gia thần thủ túc. Công việc xong xuôi ông cho cử binh vừa thuyền vừa ngựa song hành thẳng tiến. Sấm nổ vang trời hai bên bờ sông, tiếng quân thuỷ - lục cùng tiến rầm rập, âm thanh vang động cả ngàn dặm, uy danh chấn động khắp nơi, khí thế đại phá tưng bừng, tiến thẳng đến chỗ quân Thục để đại chiến. Quân Thục đại bại, không thể chạy thoát, binh mã không còn một bóng. Sơn Thánh cùng Lực Công làm biểu tấu.
Báo tin mừng chiến thắng. Nhà vua ban chiếu mời về triều, mở đại tiệc ăn mừng, gia ban phong thưởng cho ba quân tướng sĩ. Phong cho Sơn Thánh làm Nhạc phủ kiêm Thượng đẳng thần. Phong cho Đại Lực Tướng quân làm Đại Lực Hộ Quốc Thượng đẳng đại vương, lại ban cho cả búa sắt và cùng nước hưởng yên vui.
Lực Công lại dâng biểu tấu xin với Duệ Vương chuẩn cho trang Cá Chử được miễn các việc binh, tô thuế và cho phép thờ thần sau khi thần trăm tuổi.
Duệ Vương đồng ý cho phép. Lực Công nghênh sắc trở về trang Cá Chử. Ngay ngày hôm đó, nhân dân trong trang Cá Chử làm lễ bái tạ chúc mừng. Lực Công cho mở đại tiệc, khao thưởng nhân dân rất hậu.
Xong việc Lực Công lại trở về triều đình.
Thời gian đó, nhà Thục cầu hoà, chăm chỉ làm ăn, xưng là phiên thần và thường xuyên cống tiến. Duệ Vương hỏi ý kiến Sơn Thánh. Sơn Thánh tâu rằng: 18 đời vua Hùng, lòng trời có hạn mới khiến ra nhà Thục thừa cơ xâm phạm; 20 Hoàng tử lần lượt ra đi. Trong lúc Bệ hạ thống nhất cõi Nam làm sao cưỡng lại ý trời? Thục Vương tuy là Bộ chủ của Ai Lao nhưng cũng là tông phái với Hoàng gia[13]; trước còn ương ngạnh nhưng sau đã xin cầu hoà, biết tiến biết thoái thì cũng là bậc hiền quân tử. Nếu nhường ngôi cho Thục Vương xong thì thần và bệ hạ cùng vui chốn thần tiên. Nếu phải chết đi thì tiêu dao chốn quê hương không tuổi[14]. Lầu phượng đài rồng, chẳng dính bụi trần. Duệ Vương nghe thấy Sơn Thánh nói vậy bèn cho triệu Thục Vương đến để nhường ngôi cho. Mọi việc xong xuôi, Duệ Vương cùng Sơn Thánh, Đại Lực công cùng nhau thăng thiên giữa ban ngày, hóa sinh vào cõi bất diệt. (Đúng vào giờ Thìn là ngày mồng 5 tháng 12).
Thục Vương lên ngôi, cảm cái ơn đã được Duệ Vương nhường ngôi nên đã trùng tu miếu vũ cung điện ở trên núi Nghĩa Lĩnh để làm nơi thờ tự.
Dân đã lập miếu vũ thờ các bậc liệt thánh triều Hùng ở núi Tản Viên làm nơi thờ tự. Lại lập miếu ở trang Cá Chử để làm nơi thờ phụng Lực Công, các triều đại đều gia phong mỹ tự là Thượng đẳng phúc thần, muôn năm hương hỏa thờ cúng, lâu dài mãi mãi. Thật là thịnh thay!.
Tặng phong Đại Lực Hộ quốc linh ứng thánh thần tiền liệt đại vương. Chuẩn cho trang Cá Chử được phép thờ phụng. (Sau này đổi tên là xã Nhân Giả).
Lại nói, từ đó trở về sau, trải các triều Tiền Lý, Hậu Lý, Đinh, Lý, Trần, Lê các đời vua khai sáng cơ đồ nhà Hùng thường giúp nước cứu dân, vô cùng linh ứng, vì thế được nhiều triều đế vương gia phong mỹ tự, lấy đó làm huyết thực ngàn năm, vạn đời còn mãi, dài lâu bất tận, yên ổn tốt đẹp thay!
- Phụng vào ngày sinh hóa các tiết cùng tên húy nhất thiết cấm dùng chữ Lực, sắc phục màu vàng cũng nhất thiết cấm.
- Ngày sinh của thần vào mồng 10 tháng 3 thì ngày mồng 8 đã hành lễ chay, lễ dưới thì dùng trâu bò, xôi rượu xướng ca.
- Ngày hóa mồng 5 tháng 12 trên dùng cỗ chay, dưới dùng lễ bằng lợn đen, xôi, rượu.
- Ngày Khánh hạ (lễ chúc mừng) vào mồng 6 tháng Giêng làm lễ và xướng ca 2 ngày.
- Ngày Khánh hạ mồng 10 tháng 8, lễ dùng lợn đen, xôi, rượu và xướng ca 2 ngày.
- Ngày Khánh hạ mồng 5 tháng 5, lễ dùng lợn, xôi, rượu và xướng ca 1 ngày.
- Ngày Khánh hạ mồng 10 tháng 10 lễ dùng lợn, xôi, rượu và xướng ca 1 ngày.
Ngày tốt tháng quý xuân (tháng 3) niên hiệu Hồng Phúc nguyên niên (1572), Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ thần Nguyễn Bính soạn.
Ngày tốt tháng mạnh đông (tháng 10) Hoàng triều Vĩnh Hựu năm thứ 4 (1738) Quản giám bách thần gia điện Hùng lĩnh thiếu khanh thần Nguyễn Hiền phụng sao lại theo bản chính.
Ngày tốt tháng trọng xuân (tức tháng 8) năm Đinh Tỵ (nhân dân) thôn Nhân Giả xã Vinh Quang huyện Vĩnh Bảo hạ bút thừa sao lại theo bản chính.
Nữ thần tướng Phùng Thị Chính năm 40 sau Công nguyên[15].
Quê quán: Thôn Thanh Lãm, xã Phú Lương, huyện Thanh Oai và thôn Phú Nghĩa (tục gọi Kẻ Sớm nay thuộc xã Phú Đông, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây) thành phố Hà Nội. Phùng Thị Chính con quan lạc Hầu Phùng Văn Bổng và bà Phùng Thị Tuyết.
Tại quê hương có miếu và đình thờ bà Phùng Thị Chính.
Thần tích ở miếu và đình chép rằng:Bà Phùng Thị Chính người quận Giao Chỉ, là cháu gọi bà Man Thiện bằng dì (bà Man Thiện là thân mẫu Hai Bà Trưng. Năm 12 tuổi, bà Phùng Thị Chính mồ côi mẹ phải ở với dì. Phùng Thị Chính kết duyên với Đinh Lượng (Đinh Lượng gọi Thi Sách bằng cậu), Đinh Lượng là bộ tướng của Thi Sách. Cuộc khởi nghĩa do Thi Sách chuẩn bị, Đinh Lượng là trợ thủ đắc lực và tin cậy của Thi Sách, khởi xướng bị bại lộ, cả hai cậu cháu cùng nhiều tướng lĩnh bị Tô Định sát hại.
Thù chồng, nợ nước, mặc dù khi đó đang mang thai, nhưng Phùng Thị Chính vẫn tham gia đạo quân khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và trở thành danh tướng xuất sắc, một trinh sát mưu trí, dũng cảm, có tài, xuất quỷ nhập thần, lai vô ảnh khứ vô hình, tâm đắc của Hai Bà Trưng. Đánh đuổi được Tô Định, Bà Trưng Trắc lên ngôi vua, Phùng Thị Chính xin Hai Bà Trưng lui về quê Tuấn Xuyên, nay thuộc xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây nuôi con, nhưng đứa bé do sinh ra ở giữa chiến trường đẫm máu, không có điều kiện chăm sóc ngay từ đầu, nên mặc dù hết lòng chăm sóc, bà Phùng Thị Chính cũng không thể nuôi được con.
Nén đau thương, bà Phùng Thị Chính đã xây dựng vùng Tuấn Xuyên thành căn cứ kháng chiến, gồm quân chính quy, các đội dân binh được trang bị vũ khí và được thường xuyên luyện tập, tham gia sản xuất, tích trữ lương thực sẵn sàng chiến đấu.
Tháng 4 năm 42, Hán Vũ Đế sai Mã Viện đem quân sang xâm lược nước ta. Mùa xuân năm 43, Mã Viện bố trí một cánh quân ở Lạng Sơn làm nghi binh, còn Y đích thân dẫn đại quân theo hướng Đông, chia làm hai cánh thủy bộ đột nhập vào cửa sông Bạch Đằng tiến về Mê Linh đánh thành Cổ Loa. Mã Viện bị thua trận ở Cổ Loa phải lui quân về Lãng Bạc (nay là Tiên Du, Từ Sơn, Bắc Ninh), Hai Bà Trưng đưa đại quân đến đánh, tại đây quân của Hai Bà Trưng đã thua trận, phải lui về Cấm Khê. Trong trận quyết chiến, Bà Trưng Trắc hy sinh, Bà Trưng Nhị tuẫn tiết. Quân đội tan tác.
Tướng giặc là Hồ Điển tham gia trong đội quân của Mã Viện đã bị Phùng Thị Chính đánh bại năm 40 biết được nơi đóng quân của Phùng Thị Chính đã đem quân đến vây bắt, Bà Chính đã chạy về quê xuống sông tuẫn tiết.
Nhân dân hai thôn Thanh Lãm và Phú Nghĩa làm lễ phục hồn cho bà và xây miếu thờ bà. Tôn bà Phùng Thị Chính làm Thành Hoàng thờ tại miếu và đình làng đến ngày nay. Hiện nay ở đình Phú Nghĩa có long ngai cổ, câu đối cổ, bài vị cổ, có sắc chỉ:
Phùng Thị Chính. Nội tướng quân Trung Lương, Tướng Trung Đẳng thần linh vị.
Còn bài thơ cổ như sau:
Trung dữ quân hè, nghĩa dữ phu
Khả xưng danh tiết lại xuân thu
Phùng Nương tuy tự danh như tại
Từ miếu lưu truyền ngã quốc chu.
Tạm dịch như sau:
Trung với vua, vẹn nghĩa cùng chồng,
Tiếng thơm còn mãi với non sông
Nàng Phùng tuy mất, danh còn đó,
Đền miếu lưu truyền với núi sông.
Hai nữ tướng Phùng Thị Tú và Phùng Thị Huyền, Năm 40 sau Công nguyên[16]
Dưới thời Bắc thuộc lần thứ nhất, thời Đông Hán, ở trại Vân Thủy thuộc đất Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc vợ chồng ông Phùng Liệt và bà Phạm Thị Tư sinh hai gái là: Phùng Thị Tú và Phùng Thị Huyền. Khi hai ả trưởng thành là lúc giặc Đông Hán cướp của giết người, cuộc sống của nhân dân ta rất lầm than. Được tin Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa ở Hát Môn, cả hai ả Tú và ả Huyền tập hợp lực lượng tụ nghĩa với Hai Bà Trưng. Ả Tú và ả Huyền giỏi võ nghệ, tài điều binh, khiển tướng, cả hai ả được Hai Bà Trưng giao chỉ huy một đội quân đánh chiếm 65 thành trì của giặc Đông Hán. Khởi nghĩa thắng lợi, bà Trưng Trắc lên ngôi vua, hai ả tiếp tục phục vụ trong quân đội. Đầu năm 42, Mã Viện đem quân sang cướp nước Việt, hai ả đã tham gia chiến đấu ở Lãng Bạc, trong cuộc chiến ở Cấm Khê, cả hai bà đã anh dũng hy sinh vào ngày 2 tháng chạp. Thương tiếc và cảm phục tài năng, lòng dũng cảm của hai ả, dân làng đã lập đền thờ hai ả tại trại Vân Thủy. Do hiện tượng sông Hồng lở, dân làng phải chạy lở, Trại Vân Thủy di dời từ Tả Ngạn sông Hồng sang Hữu ngạn sông Hồng, lập ra sáu xóm, sau này thành các làng Vĩnh Phúc, Vĩnh Thọ, Vĩnh Khang, Vĩnh Ninh, Vĩnh Thuận, Vĩnh Lộc. Sáu làng trên hiện nay hợp thành hai xã: Vân Nam, Vân Phúc thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Hiện nay các làng đều thờ hai bà ở đền làng.
Hữu tướng quân Phùng Thanh Hòa - Thế kỷ VI (544)[17]
“Phùng Thanh Hòa sinh ngày 12 tháng 11 năm Mậu Thân (tức ngày 8/12/528) ở trang Hồng Vinh, quận Nam Xương nay thuộc huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Bố là Phùng Thủy, mẹ là Hoàng Thị Mai. Ông bà ăn ở phúc đức, hiền lành, gia tư thuộc hạng trung lưu, hay làm việc thiện nên được thiên thần phù hộ sinh ra ngài” (Thần phả đình làng Phùng Xá, Thạch Thất, do Tiến sĩ Nguyễn Bính thế kỷ 17 soạn). Khi ngài sinh ra thiên tư khác lạ, lớn lên thông minh học một biết mười. Ngoài việc học chữ nghĩa văn chương, Ngài lại học binh thư võ nghệ, cung kiếm môn nào cũng giỏi. Không những thế, Ngài có năng khiếu về âm nhạc, đàn sáo. Thời bấy giờ nước ta bị nhà Nam Lương đô hộ. Đời sống nhân dân lầm than cực khổ. Năm Tân Dậu (541) Lý Bí phất cờ khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Lương, đuổi được thứ sứ Tiêu Tư, chiếm giữ thành Long Biên. Phùng Thanh Hòa triệu tập nghĩa sĩ trong vùng đứng lên hưởng ứng. Tháng Giêng năm Giáp Tý (544) Lý Bí lên ngôi vua tức Lý Nam Đế, lập ra nước Vạn Xuân, lấy phiên hiệu là Thiên Đức. Quân nhà Lương lại cho Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem quân sang đánh trả thù. Vua Lý Nam Đế bị vây hãm ở thành Gia Ninh. Thế giặc rất mạnh, ngày 11 tháng 8 năm Bính Dần (546) Phùng Thanh Hòa được vua Lý Nam Đế phong Hữu tướng quân, ông đem quân giải vây, cứu vua Lý cùng Tả tướng quân Triệu Quang Phục ở hồ Điển Triệt.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “… Mùa thu tháng Tám, vua Lý Bí cùng các tướng đem 2 vạn quân từ trong đất lão ra đóng ở hồ Điển Triệt, đóng nhiều thuyền bè chật kín cả mặt hồ. Quân lương sợ không giám tiến vào”.
“… vua thoát khỏi vòng vây rút về động Khuất Lão”. Tháng 4 năm 548 vua lý Nam Đế qua đời. Triệu Quang Phục rút về căn cứ Dạ Trạch - Hưng Yên, xưng là Triệu Việt Vương. Phùng Thanh Hòa lui về lập nghiệp ở An Hoa Trang, nơi có phong cảnh hữu tình, là miền đất linh thiêng, nhân dân hiếu thuận.
An Hoa cổ truyền lưu hiệu
Phùng Xá tân thừa cải Việt danh.
Sau 2 năm, ngài chiêu tập dân ở các vùng lập ấp, mở mang làng xóm, lấy vợ sinh con, rồi hóa ở Phùng Xá vào ngày 15/8 năm Kỷ Tỵ (22/9/549). Nơi ở của Ngài hiện nay, là đình làng, tại đình có bài vị, sắc phong, câu đối, hoành phi, kiệu, tán vọng thờ ngài.
“ Tích nhật An Hoa kim Phùng Xá
Công minh Tiền Lý hiển lê Thì”.
“Phụ Tiền Lý, kiến độc lập kỳ - thống nhất sơn hà tôn đế quốc
Chuẩn Phùng thôn, vi phụng tự sở - thiên thu miếu mạo phúc cư dân”.
Đặc biệt, còn giữ được cuốn thư bằng gỗ sơn son thếp vàng có từ lâu khắc bằng bài thơ ngũ ngôn chữ Hán như sau:
Phiên âm Anh linh trường hách hách Chính khí tự nguy nguy Ba cổn chương thần hóa Sơn hà kỷ thánh uy Công minh Tiền Lý sử Tích hiển Hậu Lê thì Phúc tái đồng thiên địa Hồng ân vạn cổ thùy. |
Lược dịch Trong sang anh linh mãi Chính trực khí tiết sang Sóng nước thần làm được Non sông rạng ngời uy Công lớn thời Tiền Lý Thời hậu Lê càng hiền rõ Cùng đất trời phúc mãi Muôn đời ghi ânsâu. |
Vị Vua Lớn - Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng - Thế kỷ VIII (766 - 791)
Phùng Hưng xuất thân từ dòng dõi hào kiệt, đời đời làm châu mục đất Đường Lâm.
Cụ tổ 7 đời của Bố Cái Đại Vương - Phùng Hưng là cụ Phùng Trí Cái - Quan châu mục Đường Lâm, cụ từng được vời vào trong cung nhà Đường cao tổ đời Đường Vũ Đức (618-626) dự yến tiệc. Vì cụ có tâm đức và được nhân dân yêu mến nên vua Đường đã tìm mọi cách dụ dỗ, lôi kéo Phùng Trí Cái vào làm quan trong nội các nhà Đường. Cụ đã từ chối bằng cách từ quan về trí sĩ tại quê hương Đường Lâm. Cụ đã mở mang điền trang, hướng dẫn nhân dân khai điền, canh tác sản xuất, phòng chống thiên tai lũ lụt, tiêu diệt thú dữ, bảo vệ mùa màng, xây dựng cuộc sống yên lành cho dân.
Thân phụ Bố Cái Đại Vương là Phùng Hạp Khanh, thân mẫu là người họ Sử, Phùng Hạp Khanh là cháu đời thứ 6 của cụ Phùng Trí Cái. Vào năm 722 Nhâm Tuất đời Đường Khai Nguyên, Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế) phất cờ khởi nghiã chống lại ách đô hộ nhà Đường, Phùng Hạp Khanh chiêu mộ quân sĩ tham gia cuộc khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan sau khi bị dập tắt, Phùng Hạp Khanh đã trở về quê hương Đường Lâm mở mang điền trang, thái ấp, ông trở lên giàu có. Trong nhà nuôi nô tỳ có đến hàng nghìn người. Trong cuộc sống đời thường ông luôn giúp đỡ người nghèo khó, bảo vệ dân làng. Toàn dân thái ấp Đường Lâm và các vùng xung quanh ai cũng yêu quý, tin tưởng vào Phùng Hạp Khanh. Khi ông mất về trời, Phùng Hạp Khanh luôn là điểm tựa tinh thần cho nhân dân Đường Lâm và các vùng xung quanh.
Phùng Hưng có hai người em trai đồng sinh là Phùng Hải và Phùng Dĩnh. Ba anh em Phùng Hưng, Phùng Hải và Phùng Dĩnh có tư chất thông minh, sức khỏe hơn người. Phùng Hưng càng lớn, càng thể hiện là người xuất chúng, có sức khỏe phi thường. Ông có thể cầm hai sừng của hai con trâu mộng đẩy chúng ra khi hai con đang hùng hổ lao vào húc nhau. Tài trí mưu sâu của Phùng Hưng có thể đâm chết hổ. Phùng Hải, Phùng Dĩnh có sức khỏe vác chảo lớn chạy hàng cây số. Thuở nhỏ ba anh em đã được cha dạy võ nghệ, giáo dục ý chí đánh đuổi giặc xâm lược giải phóng quê hương. Thời bấy giờ nước ta dưới ách đô hộ nhà Đường, Cao Chính Bình là quan cai trị dân ta, chúng đàn áp, bóc lột, vơ vét của cải dân lành không từ một thủ đoạn nào. Đứng trước cảnh mất nước, nhà tan, anh em Phùng Hưng đứng lên phất cờ khởi nghĩa, chiêu mộ nghĩa binh. Lời kêu gọi của Phùng Hưng đã đi đúng nguyện vọng của quần chúng, số người hưởng ứng, theo ủng hộ khởi nghĩa mỗi ngày một đông, ước tới hàng vạn người, có cả mưu sĩ và tướng tài như Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần cuộc khởi nghĩa kéo dài trong nhiều năm, gây khó khăn cho chính quyền của Cao Chính Bình.
Phùng Hưng xưng là Đô Quân, Phùng Hải xưng là Đô Bảo, Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng. Năm Tân Mùi 791, Phùng Hưng cùng các tướng lĩnh đem quân vây đánh thành Tống Bình. Quân của Phùng Hưng chia làm 5 đạo do các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần và chủ tướng Phùng Hưng tiến công vây thành. Cao Chính Bình đem quân ra chống cự. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, quân địch chết nhiều, Cao Chính Bình vào trong thành cố thủ, lo sợ cuối cùng ốm chết. Phùng Hưng chiếm lĩnh thành trì vào phủ Đô hộ, coi chính sự đất nước được 7 năm thì mất. Sau khi mất, con trai ông là Phùng An lên nối ngôi, An nối nghiệp được hai năm thì chính quyền lại rơi vào tay giặc. Nền tự chủ vừa mới xây dựng chỉ tồn tại được chín năm. Trong công trình Việt giám thông khảo tổng luận, sử thần Lê Tung gọi Phùng Hưng là “Phùng Bố Cái”, nghĩa của “Bố” chính là: Vua (Bua - Bố) và “Cái” là: Lớn. “Bố Cái” tiếng Nôm là “Vua Lớn” tương đồng với “Đại Vương” trong tiếng Hán Việt. Trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi là: “Dân chúng tôn (Phùng) Hưng làm Bố Cái Đại Vương” (chứ không phải là: con Phùng Hưng tôn xưng cha). Việc Phùng Hưng được dân chúng suy tôn là “Vua Lớn”, còn thấy rõ trong câu sử bút sau đây: “Vương thường hiển linh, dân cho là thần, mới làm đền thờ ở phía Tây phủ đô hộ, tuế thời cúng tế”. Sử cũ còn ghi chép rõ: Ngôi đền thờ ấy, trên đất Hà Nội thời tiền Thăng Long, đến thời Lê, thuộc đất “phường Thịnh Quang”.
Phùng Hưng mất rồi rất hiển linh, thường hiện hình trong dân gian, giúp dân trong lúc hoạn nạn. Dân làng lập miếu thờ tự ông ở Đường Lâm. Phùng Hưng hiển linh giúp Ngô Quyền đánh thắng giặc ở sông Bạch Đằng. Ngô Quyền cho lập đền thờ ông. Ở nhiều nơi như: Quảng Bá, Triều Khúc, Kim Mã, Hoàng Cầu, Đại Ứng, Phương Trung, Hoạch An, xã Gia Thanh, Gia Viễn - Ninh Bình nhân dân đã lập đền thờ để tưởng nhớ đức thánh Phùng Hưng. Hiện nay lăng mộ của Phùng Hưng ở đầu phố Giảng Võ (cạnh bến xe Kim Mã, phường Cát Linh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội) được chính quyền thành phố Hà Nội, tỉnh Hà Tây và nhân dân xung quanh vùng xây dựng khang trang, hương khói quanh năm tưởng nhớ Bố Cái Đại Vương vị “Vua Lớn” của đất nước. Ở thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Hải Dương, tỉnh Hưng Yên, tỉnh Nghệ An, tỉnh Thừa Thiên - Huế, thành phố Đà Nẵng, tỉnh Khánh Hòa và nhiều địa phương trong cả nước đặt tên phố, tên đường, tên xã, tên phường, tên trường học Phùng Hưng để giáo dục truyền thống tốt đẹp của cha ông và ghi nhớ công ơn người anh Hùng dân tộc.
Tả nhai - Phùng Tá Thang - Thế kỷ XIII
Có ý kiến cho rằng, Phùng Tá Thang quê ở xã Hưng Xá, nay thuộc thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, có ý kiến lại cho quê ông ở Lý Nhân (Hà Nam), sau dời sang Mỹ Xá - Thái Bình, lại có ý kiến cho rằng: Quê ông ở Tây Đằng, Ba Vì, Hà Nội. Ông là người đứng đầu Phật giáo thời Trần Thái Tông (1225-1258). Ông là trí thức xuất sắc dưới triều Lý - Trần, có công đóng góp vào quá trình hình thành giáo phái Trúc Lâm. Trần Thái Tông là học trò của Phùng Tá Thang về giáo lý đạo Phật. Phùng Tá Thang được vua Trần phong tước Tả Nhai, phẩm cao nhất của Tăng đạo. Ông là cha đẻ Phùng Tá Chu, người đã có công giáo dục, hình thành nhân cách, tài năng, trí tuệ và đức độ của nhân vật lịch sử lớn Phùng Tá Chu - Người đã có công lớn giúp nhà Trần thành công trong buổi đầu dựng nghiệp.
Thái phó lưỡng triều Lý - Trần, Phùng Tá Chu - Thế kỷ XIII
Phùng Tá Chu là con trai Đạo sĩ, Tả nhai tài năng Phùng Tá Thang thời Lý - Trần, Phùng Tá Chu sinh năm 1192 ở làng Mẽ, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ông mất năm 1241, mộ táng tại đồi Cao, thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, đây là vùng đất địa linh, có quần thể tâm linh: Chùa Cao, đền Cao, nơi có ang nước, nơi tụ thủy, tụ linh, tụ lộc. Mặt lăng mộ nhìn hướng Nam, hướng của “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ” hướng của trí tuệ, mát mẻ, siêu thoát, vạn vật sinh sôi nảy nở, nơi Tản Viên sơn Thánh trở thành Đệ nhất thượng đẳng tối linh thần, đứng đầu trong “tứ bất tử” của trời Nam. Nơi đây không gian thoáng đãng, vượng khí phủ đầy, quanh năm vi vu gió núi, mây trời, nơi quan Thái phó lưỡng triều Phùng Tá Chu yên giấc ngàn thu.
Sinh thời Phùng Tá Chu làm quan Nội hầu, sau làm quan Thái phó lưỡng triều Lý - Trần (ba chức thái sư, thái phó, thái bảo được gọi là tam công hoặc tam thái, chức vụ chỉ đứng sau vua, đứng đầu triều, giúp đỡ nhà vua, điều hòa âm dương, tiến cử người hay, loại bỏ người dở, để mưu toan chính trị). Ông đã đem hết tài “kinh bang tế thế” để cùng vua quan nhà Lý - Trần giữ bình yên xã tắc. Ông là người có công đặt nền móng xây dựng, mở nghiệp nhà Trần. Vua Trần đã phong ông làm “Phụ quốc Thái phó”, “Hưng nhân đại vương”, “Đệ nhất công thần”; các triều đại phong kiến coi ông là “Đệ nhất phúc thần”.
Thái phó Phùng Tá Chu là một trong những nhân vật lịch sử tiêu biểu, một nhân vật đặc biệt của một giai đoạn lịch sử đặc biệt, ông có tầm ảnh hưởng rất lớn trong cả hai triều Lý - Trần, ông có nhiều công lao đóng góp cho việc khởi dựng triều Trần, là bậc khai quốc công thần của nhà Trần, là người đặt nền móng xây dựng nền hành chính, tư pháp, giáo dục, quân sự, ở mảng nào cũng có thành tựu để lại cho đời sau suy ngẫm và học tập. Nhân dân làng Quảng Bá, quận Tây Hồ thành phố Hà Nội phối thờ ông cùng với Bố Cái Đại Vương ở đình Quảng Bá; từ xa xưa tại làng Xuân Trạch xã Hạ Khê tổng Phù Long, nay là xã Nam Cường, huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An có đền thờ họ Phùng trong đền có thờ Phùng Tá Chu; nhân dân làng Mẽ thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập miếu tôn thờ ông làm thần thành hoàng. Ở thành phố Hồ Chí Minh, chính quyền thành phố đã đặt tên một đường phố mang tên Phùng Tá Chu tại phường An Lạc A, quận Bình Tân. Từ bao đời nay, con cháu hậu duệ Thái phó Phùng Tá Chu ở thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội và thôn Bích Chu, xã An Toàn, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc thờ phụng, trông coi lăng mộ.
Phùng Thế Kỳ - Thế kỷ XIV
Cuối thế kỷ XIV, Hồ Quý Ly lấn lướt, có kế hoạch tiếm quyền nhà Trần, phò mã đô úy Phùng Thế Kỳ con rể vua Trần Thuận Tông, có ý định “phù Trần diệt Hồ”, việc không thành ông đã cùng vợ là công chúa Thiên Hương và những người thân tín bỏ kinh thành về khai hoang, mở đất, lập làng Hổ Đội. Phùng Thế Kỳ quê gốc làng Đồng Bảng, huyện Minh Nghĩa, đạo Sơn Tây, ông là cháu thứ 12 của Phùng Đỗ.
Phùng Đỗ là danh tướng thời Lý Thái Tông. Khi đó, ở Cao Bằng có loạn, vua Lý Thái Tông sai Phùng Đỗ dẹp loạn, Tướng quân Phùng Đỗ đem quân đánh thẳng vào động Ma Sa, sào huyệt của quân giặc, bắt được tướng giặc. Chiến công của Phùng Đỗ đã giữ yên được biên ải, ông được triều đình ban thưởng. Khi mất ông được phong thần, ở đình làng Hổ Đội thờ ông có đôi câu đối:
“Nhất trận Ma Sa kinh phá phủ
Thiên thu Hổ Đội thượng dư uy”
Nghĩa là, một trận đánh đã phá tận vào huyệt Ma Sa của giặc, chúng phải kinh sợ. Nghìn năm sau uy danh vẫn còn ở đất Hổ Đội.
Phùng Thế Kỳ là cháu tướng quân Phùng Đỗ, ông tài kiêm văn võ, được vua Trần Thuận Tông gả công chúa Thiên Hương, phong làm phò mã đô úy, giữ chức chiêu thảo An phủ sứ. Năm 1398, Hồ Quý Ly bức vua Trần Thuận Tông nhường ngôi cho con là Trần Thiếu Đế còn nhỏ tuổi. Năm 1400 tìm cớ giết vua Trần Thuận Tông, phế bỏ Thiếu Đế, tự lập làm vua. Thấy họ Hồ làm việc bạo nghịch, Phùng Thế Kỳ chiêu mộ những người có ý chống nhà Hồ lập đạo quân tinh nhuệ lấy tên là Hổ Bôn chống lại nhà Hồ. Phùng Thế Kỳ đem đạo quân Hổ Bôn thủ hiểm vùng tả ngạn sông Đà, lo thanh viện cho tướng Trần Khát Chân ở kinh thành. Việc bại lộ, Trần Khát Chân bị hại, Phùng Thế Kỳ đã liên kết cùng phò mã Vũ Uy, công chúa Thiên Hương làm cuộc di dân, đem theo 12 dòng họ và những người thân tín tới vùng đất huyện Phụ Dực để mở đất lập thành, nuôi chí phù Trần.
Khi hai ông bà mất, dân làng Hổ Đội tôn làm thành hoàng. Vì ông bà không có con nên ở làng Hổ Đội ngày nay không có người họ Phùng.
Quan Hành khiển Phùng Sĩ Chu - Thế kỷ XIII (1289)
Căn cứ lí lịch di tích nhà thờ họ Phùng Đại Tôn của Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An và theo Gia phả họ Phùng ở làng Xuân Trạch, xã Nam Cường, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nhà thờ họ Phùng Đại Tôn thờ tiên tổ và hậu duệ họ Phùng - một dòng họ có nhiều danh tướng, lương thần, công hầu kế thế có công với dân với nước được nhân dân lập đền thờ và con cháu xây dựng nhà thờ để quanh năm hương khói thờ phụng. Dòng họ Phùng ở xã Nam Cường là nơi khởi nguồn của các nhánh họ Phùng ở tỉnh Nghệ An như: Thị xã Cửa Lò, huyện Nghi Lộc, huyện Yên Thành, huyện Thanh Chương… và một số tỉnh khác như Bắc Giang, Hà Tĩnh. Theo Gia phả của dòng họ, Phùng Sĩ Chu làm quan Hành Khiển thời Trần (thế kỷ XIII - 1289), ông là viễn tổ họ Phùng ở Nam Đàn. Hậu duệ của ông gồm những người con có công với dân với nước như: Lê triều khai quốc công thần Dĩ Quận công Phùng Bá Lộc, Đề đốc thập vệ quân Phùng Bá Ngự, Thiếu bảo Lễ quận công Phùng Bá Đạt, Đông quận công Phùng Bá Nghị, Phùng Viết Đán. Hiện nay ba nhà thờ họ Phùng ở làng Xuân Trạch, xã Nam Cường, huyện Nam Đàn, nhà thờ họ Phùng ở xã Nghi Thu, thị xã Cửa Lò, nhà thờ họ Phùng ở xã Phú Thành, huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An đã được UBND tỉnh cấp bằng di tích lịch sử cấp tỉnh.
Đại việt sử ký toàn thưcó ghi:
“Sĩ Chu người xã Cổ Liễu, Trà Hương. Khi người Nguyên sang, vua sai Sĩ Chu bói. Sĩ Chu đoán rằng:
“Thế nào cũng đại thắng”. Vua mừng bảo: “Nếu đúng như lời đoán, sẽ có trọng thưởng”. Giặc yên vua nói: “Thiên tử không có nói đùa”. Do đấy có lệnh này. Sĩ Chu là người trung hiếu, có tài văn nghệ, làm quan đến Thiếu phó, hiệu là Tốn Trai tiên sinh”.
Thị lang Bộ lễ Phùng Nhậm - Thế kỷ XV (1428).
Từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, học một biết mười, có tài tranh biện. Tự cho mình sinh bất phùng thời nên không dự các kỳ thi cuối Trần và thời nhà Hồ. Nghe lời hiệu triệu của Lê Lợi, Phùng Nhậm về doanh Bồ Đề ra mắt Bình Định Vương, được tiếp đãi trọng thị, ông cùng Bùi Quốc Hưng giúp việc Nguyễn Trãi. Năm 1428, khi Lê Lợi lên ngôi, ông được phong chức Thị lang bộ Lễ và ở cương vị này đến cuối đời.
Giám nghị đại phu - Tả đô đốc Phùng Tiến Đạt - Thế kỷ XV.
Là con trai Thị lang Phùng Nhậm. Từ nhỏ, ông được dạy dỗ chu đáo. Năm Kỷ Dậu, Thuận Thiên thứ 2 (1429), ông vào học trường Quốc Tử Giám, được liệt vào hạng Thượng xá nhân, hưởng học bổng loại cao nhất. Năm Thuận Thiên thứ 6 (1433), đứng đầu trong số các giám sinh khoa Hoành từ, được cử làm Xá nhân ở bộ Lễ.
Lê Thái Tông lên ngôi, ông được chuyển làm Tả Môn hạ sảnh, đứng đầu Tả ty, chức Tả Thị lang, ít lâu sau chuyển ra ngoài trấn giữ chức Tri Tây đạo quân dân ba tịch, bao quát cả vùng phía tây kinh lộ. Thời ấy, xứ Đoài liên tiếp được mùa, mọi tô thuế, phú liễm dâng nộp triều đình chu tất. Phùng Tiến Đạt được điều về kinh làm Gián nghị đại phu. Năm Thái Hòa thứ 9 (1451), được phong chức Thẩm hình viện sự đồng tri cùng một số người đi sứ nhà Minh.
Năm Quang Thuận thứ nhất (1460), Lê Thánh Tông (Tư Thành) lên ngôi hoàng đế, ông thành Quốc trượng, được “vinh phong” Tả đô đốc. Tất cả các án từ các nha môn trong cung ngoài trấn nộp về chính đường ông đều hội thẩm công đồng bàn xét kỹ, quyết đoán công bằng. Khi Thánh Tông ban luật Hồng Đức, Thẩm hình viện sự Phùng Tiến Đạt soi đọc từng điều, từng chữ rồi viết thành sớ trình vua quyết đáp, được vua khen: “Nghiêm cẩn”.
Hoàng hậu Phùng Thị Thục Giang - Thế kỷ XV
(Con gái Giám nghị đại phu Phùng Văn Đạt)
Phùng Thị Thục Giang là con gái Giám nghị đại phu Phùng Tiến Đạt, cháu gái gọi Thị lang bộ Lễ Phùng Nhậm là ông nội. Khi còn trẻ, Phùng Thị Thục Giang “hương trời sắc nước”. Bà sinh ngày Bính Tý tháng 7 năm Thái Hòa Giáp Tý (1444) ở lộ Hóa Châu, trong lúc cha bà làm quan ở đó. Năm 17 tuổi được tuyển vào cung hầu vua Lê Thánh Tông. Vua Lê đã đổi tên bà là Diệm Quý, khi bà sinh Kiến Vương Tân thì được phong Sùng Viên, đứng đầu hàng phi. Bà mắc bệnh nặng, tháng 12 ngày Bính Tuất năm Hồng Đức thứ 20 (1489) bà mất, thọ 46 tuổi. Năm Hồng Thuận thứ nhất (1506) Lê Tương Dực cháu nội bà lên ngôi vua, truy tôn bà là Như Huy Tích quang Hoàng Thái hậu, đưa bà về thờ ở Thái miếu. Từ xa xưa Lê Quý Đôn đã viết về bà gọi là hoàng hậu.
Ở làng Mỹ Xá có bốn ông vua Lê:
+ Lê Tương Dực gọi bà Phùng Thị Thục Giang là bà nội.
+ Lê Tương Dực không có con, nên triều đình đã đưa Lê Y, gọi Tương Dực là chú ruột (con trai anh ruột) lên làm vua gọi là vua Lê Chiêu Tông.
+ Mạc Đăng Dung đưa em trai Lê Chiêu Tông là Lê Xuân gọi là Cung Hoàng lên làm vua.
+ Vị vua thứ tư là Lê Duy Ninh hiệu là Trang Tông lên làm vua thay Cung Hoàng.
Bốn ông vua này ở làng Mỹ Xá, huyện Hưng Nhân (nay Hưng Hà) là cháu nội, chắt nội, và chít nội bà Phùng Thị Thục Giang. Làng Mỹ Xá là nơi yên nghỉ của bà Phùng Thị Thục Giang. Làng Mỹ Xá hiện nay chỉ có ba họ Trần, Phạm, Nguyễn. Họ Nguyễn chiếm 80% dân số trong làng, nhưng mọi người vẫn nhớ xưa kia làng Mỹ xá có họ Phùng.
CÁC NHÀ KHOA BẢNG HỌ PHÙNG
THỜI PHONG KIẾN
Phùng Đốc - Thế kỷ XV.
Quê gốc: Nguyên Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Ông thi đỗ Hoàng Giáp Tiến sĩ năm Kỷ Mùi 1499, Trường thi: Kinh đô, niên hiệu Cảnh Thống thứ 2, đời vua Lê Hiến Tông. Ông làm quan đến Giám sát ngự sử.
Phùng Hữu Hựu - Thế kỷ XVI.
Quê gốc: Đông Lỗ, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội. Ông thi đỗ Tiến sĩ năm Quý Mùi 1523, niên hiệu Thống Nguyên thứ 2, đời vua Lê Tung Hoàng. Ông làm quan đến chức Thừa chính sứ, tước Lý Trai bá.
Phùng Ông - Thế kỷ XVI.
Quê gốc: Tuấn Xuyên, Vạn Thắng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Ông thi đỗ Tiến sĩ năm Đinh Mùi 1547, trường thi Kinh đô. Niên hiệu Vĩnh Định thứ 1, đời vua Mạc Nguyên Phúc. Ông làm quan đến chức Thừa chính sứ.
Phùng Trạm - Thế kỷ XVI.
Quê gốc: Xóm Chiềng, Tân Sỏi, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Ông thi đỗ Tiến sĩ năm Giáp Tuất 1574, trường thi Kinh đô. Đời vua Sùng Khang thứ 9 Mạc Hợp Mậu. Ông làm quan đến chức Tự Khanh.
Phùng Khắc Khoan - Thế kỷ XVI.
Quê gốc: Xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Ông thi đỗ Hoàng giáp Tiến sĩ năm Canh Thìn 1580, trường thi Kinh đô. Năm Quang Hưng thứ 3 đời vua Lê Thế Tông. Ông làm quan đến chức Hộ bộ Thượng thư, kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu, hai lần đi sứ nhà Minh.
Phùng Thế Triết (Thế Trung) - Thế kỷ XVII.
Quê gốc: Kim Bí, xã Tiên Phong, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Ông thi đỗ Tiến sĩ năm Quý Hợi 1623, trường thi Kinh đô. Niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 5, đời vua Lê Thần Tông. Ông làm quan đến chức Hiến sát sứ.
Phùng Viết Tu - Thế kỷ XVII.
Quê gốc: Tân Quang, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Ông thi đỗ Hoàng giáp Tiến sĩ năm Nhâm Thìn 1652, trường thi Kinh đô. Niên hiệu Khánh Đức thứ tư, đời vua Lê Thần tông. Ông làm quan đến chức Thiêm đô Ngự sử.
Phùng Bá Kỳ - Thế kỷ XVIII.
Quê gốc: Thôn Đông, xã Minh Tân, huyện Yên Lạc, thỉnh Vĩnh Phúc. Ông thi đỗ Tiến sĩ năm Ất Mùi 1715. Niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11, đời vua Lê Dụ Tông. Ông làm quan đến chức Thự tham chính Nghệ An.
Phùng Xuất Nghĩa - Thế kỷ XIX.
Quê quán: Làng Trích Sài, quận Tây Hồ, Hà Nội.
Ngày 1 tháng 10 năm Quý Dậu, Tự Đức thứ 26 (20/11/1873), quân Pháp do Francis Garner đánh chiếm thành Hà Nội, sau đó lấn ra phủ Hoài Đức, huyện Từ Liêm, huyện Gia Lâm, huyện Thanh Trì của các tỉnh Hà Đông, Bắc Ninh… Triều đình Huế đã ra lệnh bãi binh, ngăn cấm nhân dân nổi dậy chống Pháp. Mặc cho triều đình đầu hàng, nhân dân các huyện giáp ranh với Hà Nội vẫn tập hợp lực lượng, tự trang bị vũ khí, thành lập các đội nghĩa binh chống Pháp ở khắp nơi. Phùng Xuất Nghĩa được cụ đồ Tịch ở làng Cổ Nhuế giúp đỡ đã đứng ra thành lập Nghĩa hội, tuyên truyền phát động nhân dân đứng lên đánh Pháp. Ông vốn là người ngao du rộng, được nhiều thân hào, thân sĩ trong vùng kính trọng nên vừa xướng nghĩa đã có đông đảo người yêu nước gồm các nhà nho, người lao động, dân buôn bán, thợ thủ công, làm công cho Pháp các làng Trích Sài, Quán La, Võng Thị, Bưởi, Nghi Tàm ven Hồ Tây tham gia. Phùng Xuất Nghĩa tuyển chọn những người khỏe mạnh hăng hái vào đội nghĩa quân. Nghĩa quân tự trang bị vũ khí bằng dáo mác, gậy gộc, súng kíp. Những người còn lại chuyên lo việc điều tra tin tức của địch báo cho quan quân phe chủ chiến, quyên góp tiền bạc, lương thực ủng hộ nghĩa quân. Phùng Xuất Nghĩa tổ chức lễ Tế cờ long trọng ở gò Ngũ Nhạc trong làng Trích Sài giáp ranh với làng Cổ Nhuế, có đông đảo nhân dân vùng Hồ Tây tham dự rồi dẫn quân đi tìm giặc Pháp để tiêu diệt.* (Theo Hà Nội, thủ đô nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trần Quốc Vượng chủ biên, NXB QĐND).
Do lực lượng của ông ít, vũ khí thô sơ, nên đội quân của Phùng Xuất Nghĩa chủ yếu tập kích các đồn giặc vào ban đêm, phục kích các cánh quân đi càn, đi tuần tiễu. Ông chỉ huy đánh các kho vũ khí quân lương, cướp thuyền của bọn công giáo phản động chở lương thực, thực phẩm tiếp tế cho quân Pháp. Những hoạt động quân sự, tình báo của Phùng Xuất Nghĩa gây cho quân Pháp nhiều tổn thất, nhiều lần giặc Pháp tung quân đi đánh song đều bị ông đánh cho thất bại. Giặc Pháp thuyết phục dụ dỗ ông theo chúng, ông khảng khái từ chối. Chúng đã bắt được ông tra tấn cực kỳ dã man, Phùng Xuất Nghĩa đã hy sinh. Nhân dân vùng Hồ Tây vô cùng thương xót và kính trọng. Nhiều gia đình đã lập bàn thờ ông và lưu truyền sự tích anh hung của ông đến mãi ngày nay. (Sách 284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam, NXB CAND, Vũ Thanh Sơn, 2009).
Tham tri Phùng Duy Cần - Thế kỷ XIX[18].
Sinh năm 1890, quê làng Bùi Xá, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh (tài liệu Toàn quyền Đông Dương viết, quê ông ở Hạ Từ, Hà Tĩnh). Ông học chữ Hán, tự học chữ Pháp, năm 25 tuổi đậu Tú Tài khoa Ất Mão (1915, Duy Tân thứ 9). Hoạn lộ của ông bắt đầu từ một người thợ ở bộ Công (1910). Ông đã trải qua các chức Thừa phái (1912), Tư vụ (1917), Viên ngoại (1924, Tri phủ (1926), Quản Đạo KonTum (1928), Án sát Bình Thuận (1930), Tá Lý (1933) rồi Thị lang bộ Công, Quản Đạo Gia Lai (1934). 5 năm sau ông lại được rút về Huế làm Thị lang bộ Hình, ít lâu sau lại chuyển qua Tham tri bộ Lại (1939), rồi bộ Lễ, bộ Công (1942). Nhờ vốn kiến thức tự học về kiến trúc xây dựng ông đã được bộ Công tín nhiệm giao cho ông tổ chức tu sửa, xây dựng nhiều công trình lớn của triều đình Huế như: Trường Hậu Bổ xây dựng trên mảnh đất Nha Thương Bạc xưa (nơi tọa lạc Nhà hát Hưng Đạo ngày nay), Trường Quốc Tử Giám (Nhà Bảo tàng Lịch sử Cách mạng Thừa Thiên Huế ngày nay), Viện Cơ Mật (Trụ sở Trung tâm bảo tồn Cố đô di tích (TTBTDT) - Cố đô Huế ngày nay, Cung Trường Sanh (từ 1915 đến 1919), ông trực tiếp chỉ huy công trường xây dựng Lăng Vạn Vạn (thân mẫu vua Khải Định) ở An Cựu và Lăng Khải Định ở Châu Ê (1919-1926). Trong thời gian làm Quản Đạo ở Tây Nguyên ông đã có công mở rộng đô thị và thành lập nhiều làng ở KonTum và Pleiku. Ba lần đóng góp vào cuộc thám hiểm chống lại các cuộc khởi nghĩa năm 1929. Phái đoàn chính phủ An Nam thực hiện chuyến đi kiểm soát các khu vực chiến lược (đường số 14) vào tháng 3 năm 1940. Tham tri Phùng Duy Cần là cha đẻ của ông Phùng Duy Phiên, Vụ trưởng Vụ Thể thao Quốc phòng thuộc Ủy ban Thể thao Quốc gia (1962); Ông cũng là cha đẻ của Viện sĩ Viện hàn lâm Khoa học - nghệ thuật châu Âu (Điêu khắc), Tiến sĩ y học ở Paris (Nha khoa).
Năm 1955, Điềm Phùng Thị nghiên cứu bản đồ Tây Nguyên chuẩn bị thăm chốn cũ - nơi bà đã theo cha khi ông làm Quản đạo ở Gia Lai và KonTum (1928-1934), bà đã tìm thấy một buôn làng còn giữ tên Play Kần do dân địa phương đặt để nhớ cụ thân sinh bà.
THỜI ĐẠI HỒ CHÍ MINH
Nối tiếp truyền thống các bậc tiền nhân, họ Phùng Việt Nam kể từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, các thế hệ người họ Phùng Việt đã đồng hành cùng bách họ Việt Nam tham gia cuộc cách mạng vì độc lập dân tộc, giải phóng quê hương đất nước, xây dựng Chủ nghĩa Xã hội. Nhiều thế hệ người họ Phùng đã ngã xuống trong các cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc để bảo vệ độc lập tự do, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ hạnh phúc của nhân dân. Nhiều người họ Phùng không ngừng phấn đấu, vượt qua khó khăn, gian khổ đạt nhiều thành tích trong lao động, công tác và học tập được lãnh đạo Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở các vị trí quan trọng trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội. Trong bài viết này, như đã nói ở trên, chưa có đủ thông tin để ghi lại đầy đủ các sự kiện, các tập thể và cá nhân họ Phùng mà bạn đọc mong muốn. Đồng thời trong quá trình biên tập có nhiều khó khăn, không tránh khỏi thiếu sót, trân trọng kính mong bạn đọc thông cảm.