(Thứ sáu, 19/02/2016, 08:55 GMT+7)

Hội thảo "Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan - Cuộc đời và sự nghiệp" diễn ra tại quê hương Thạch Thất, nhân dịp kỷ niệm 399 năm ngày mất của cụ. Với các tham luận sôi nổi, chất lượng, đa chiều và có nhiều khía cạnh mới trong cuộc đời và sự nghiệp, các nhà khoa học đã làm nổi bật hình ảnh của một danh nhân văn hóa xứ Ðoài nói riêng, thủ đô nói chung trong lịch sử vẻ vang của dân tộc, là một tấm gương sáng để thế hệ trẻ noi theo.

 

Trong các danh nhân lịch sử mỗi người mỗi vẻ đặc sắc khác nhau ấy, Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, một lương thần, một danh nho và là một thi sĩ tài hoa mẫn tiệp. Trước tác cụ để lại hậu thế xứng đáng được đặt ở tầm vóc một tác gia lớn của nền văn học sử Việt Nam. Cụ luôn được xếp vào đội ngũ những tác gia hàng đầu như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm trước đó và Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát sau này. Về số lượng, cho đến nay, giới sưu tầm đã xác định được hơn 500 tác phẩm của cụ từ văn tế, văn bia, kinh truyện... nhưng đặc sắc hơn cả là thơ. Tác phẩm còn lại của cụ hiện nay tiêu biểu là bốn tập thơ chữ Hán:Ngôn chí thi tập, Huấn đồng thi tập, Ða thức tập, Mai lĩnh sứ hoa thi tập. Chỉ riêng với bốn tập thơ trên đã khẳng định và tôn vinh tầm vóc của cụ, một danh nhân thi sĩ từng được nhân dân phong tặng là Trạng Bùng.

Từ những bài thơ đầu tiên khi còn là một thiếu niên, Phùng Khắc Khoan đã sớm bộc lộ ý chí của mình: Nam nhi tự hữu hiển tượng sự/ Khẳng tác ngang tàng nhất trượng phu (Tự thuật). Cái khảng khái của thân trai muốn nêu tiếng thơm, vẻ vang cho cha mẹ, tổ tông ấy dường như là tư duy xuyên suốt thơ văn của Trạng Bùng. Trong bài Khiển muộn (Giải buồn) Phùng Khắc Khoan thẳng thắn tỏ chí:

Bụi nhơ quét sạch đời yên tĩnh

Binh giáp mang theo trí quật cường

Cơ hội đáng làm như có gặp

Công thành hồ dễ kém Trương Lương!

Những bài thơ cụ viết khi tuổi cao vẫn giữ trọn cái cốt cách, khí khái cao rộng ấy: Bình sinh chính trực trung thành/ Tráng chí cao huyền nhật nguyệt minh. (Bệnh trung thư hoài / Tạm dịch: Ðời ta chính trực lại trung thành - Tráng chí treo cao rỡ ràng như mặt trăng mặt trời tỏa sáng).

Năm 1553, khi lặn lội vào Thanh Hóa tham gia sự nghiệp trung hưng nhà Lê, Phùng Khắc Khoan đã bộc lộ rất rõ tâm trạng phấn chấn, khảng khái của mình: Tá hành trí tại hiển dương tụy/ Nham hiểm khê thâm khởi đạn lao (Tạm dịch: Chuyến này dương hiển danh nhân - Ðèo heo suối thẳm, gian truân xá nào). Ở những lúc như thế, thơ Phùng Khắc Khoan đột nhiên trở nên sinh động và thú vị khác thường:

Trèo leo sớm sớm chân rừng

Trĩ kêu trọng nội, ô bừng ngoài khơi

Ðón ai hoa mỉm nụ cười

Cờ lau thẳng hướng, mặt trời bày ra

Cỏ cây thuộc tiếng mừng ta

Gió mây gợi tứ, bút hoa nảy vần

(Lâm Lộc tảo hành - Bản dịch thơ: Tham Tuyền).

Phùng Khắc Khoan trong công cuộc trung hưng đã gặp Trịnh Kiểm, rồi vua Lê Trung Tông, cụ được tin dùng và đã quyết chí thể hiện tài hoa của mình cống hiến cho công cuộc trung hưng. Ðó cũng là quan điểm nhất quán của cụ về hành đạo. Cụ đã dốc ra cái sở đắc của mình phục vụ vương triều Lê - Trịnh. Thơ Phùng Khắc Khoan lúc này hiển lộ rõ ý ấy:

Chí dưỡng hiển một đời đã thỏa

Ðược tin dùng vui tạ ơn vua

Rắp lòng chuyển nắng thành mưa

Tài trai thế ấy mới cho hào hùng

(Thanh Vân đắc lộ - Bản dịch thơ: Tham Tuyền).

Năm Ðinh Tỵ (1557), khi ấy Phùng Khắc Khoan 29 tuổi mới lều chõng đi thi ở Yên Ðịnh - Thanh Hóa và đỗ thủ khoa. 23 năm sau (1580), ông quan Phùng Khắc Khoan đi thi Hội và đỗ Nhị giáp tiến sĩ. Trong lịch sử thi cử các triều đại phong kiến Việt Nam, hiếm có một vị quan tuổi ngoài 50 lều chõng đi thi và đỗ cao như Phùng Khắc Khoan. Nhưng, cũng phải khẳng định ngay, sự nghiệp và danh vọng mà Phùng Khắc Khoan có được, có lẽ phần lớn là do tự học, chính xác hơn là học từ thực tiễn.

Việc đi thi của ông quan Phùng Khắc Khoan không những gây dư luận đương thời mà người đời sau còn không ngớt nhắc đến. Phạm Ðình Hổ trong Vũ trung tùy bút viết: "Ðầu đời Trung Hưng có Phùng Khắc Khoan đã là bậc công thần, tham mưu chốn cơ mật, đã từng giữ những trọng chức ở các bộ, các tự, mà còn phải hạ mình xuống chốn trường thi, cầu lấy đỗ đại khoa mới cho là vinh".

Cho thấy, người đời sau đánh giá về Phùng Khắc Khoan cũng rất trân trọng vậy.

Sinh thời, Phùng Khắc Khoan rất quan tâm đến nông nghiệp, thủy lợi, thời tiết, mùa màng. Cụ luôn luôn mong mỏi "Mùa màng tươi tốt, các loại lúa bội thu; Cấp túc cho người già cả ở thôn làng thêm tuổi thọ". Tấm lòng cụ là tấm lòng lo cho dân từ hạt gạo, cọng rau để từ ấy mà sửa sang chính sự, bồi dưỡng gốc nước:Thánh chúa thần kim cần vụ bản/ Nhân an canh tạc thái bình dân. (Xã nhật).

Thơ văn với Phùng Khắc Khoan không riêng để bộc lộ chí hướng, hành đạo mà còn là chỗ để tâm tình, hòa nhập với thiên nhiên, hòa nhập với nhân dân. Trong thơ Phùng Khắc Khoan, con người và thiên nhiên luôn hài hòa, nhịp nhàng, rất tinh tế nhưng cũng rất sẻ chia, chung thủy trước sau như một. Thơ phong cảnh của Trạng Bùng có những bài đã đạt tới sự tinh tế:

Ðỉnh non cao ngất lâu đài

Một bầu thế giới tuyệt vời ở trong

Nghìn năm, xuân chẳng tận cùng

Bốn mùa, hoa vẫn ngát lừng hương bay

Bụi không vương mảnh đất này

Trời mênh mông để tháng ngày dài thêm

Có đường lên đến cõi tiên

Can chi mà phải hỏi phiền chàng Lưu

(Lên chùa Phát Am - Bản dịch thơ: Trần Lê Văn).

Mảng văn chương bang giao vệ quốc của Trạng Bùng khi đi sứ phương Bắc cũng rất đặc sắc. Ðây đồng thời cũng là những cống hiến lớn của cụ trên mặt trận ngoại giao. Lê Quý Ðôn, một bậc lương thần đồng thời cũng là một sứ thần nổi tiếng thời sau, khi bàn về Trạng Bùng đã viết: "Phùng Khắc Khoan phụng mệnh đi sứ, tuổi đã ngoài 70, không những biện bạch quang minh chính đại, đạo đạt được mệnh lệnh của vua, làm mạnh mẽ được thể chế trong nước, đến như 30 vần thơ dâng mừng thánh tiết và hơn 10 vần thơ đáp lại chánh phó sứ nước Triều Tiên, Nhật Bản tài tứ chứa chan, cách điệu tươi đẹp, y như lúc còn trẻ tuổi. Như thế chả phải là được linh khí núi sông giúp đỡ đấy ư?".

Cũng như bao người con Việt Nam bình dị khác khi rời đất nước mình, dù mang trọng trách bang giao, cũng không ít lúc con người ta chạnh nhớ về đất nước:

... Trăng biết nỗi lòng, nghìn dặm chiếu

Chuông khua giấc mộng, mấy canh rung

Tuyết tan phương bắc, vầng hồng chuyển

Dạ nhớ trời Nam, mây trắng giong...

(Ở công quán, đêm đông hoài cảm).

Lê Ngô Cát, trong Ðại Nam quốc sử diễn ca đã viết:

Phùng Khoan sứ tiết cũng già

Biểu Từ biên chiết thật đà thiết minh

Mấy lời ôn du đinh linh

Phong vương còn đợi biểu tinh có ngày.

Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, một danh nhân đặc biệt, thành danh ở nhiều lĩnh vực. Riêng với thơ ca, cụ có những đóng góp không nhỏ. Năm tháng thời gian đi qua, lớp hậu thế càng trân trọng và đồng cảm với những đóng góp văn chương của cụ. Tình cảm của nhân dân quê hương với thi sĩ họ Phùng ngày càng nồng đượm. Từ một trí thức biết chọn đúng đường. Từ một học trò tự học, được học các bậc danh nho biết xuất xử, tiến lui, công danh, tiết tháo đủ đầy. Từ một người con bình dị, Kẻ Bùng dần khẳng định mình nơi trung tâm quyền lực, làm dường cột quốc gia, trọng thần của triều đình trải mấy triều vua chúa, không chỉ lẫy lừng trong nước mà còn vang danh Bắc quốc, lân bang đủ cho thấy tài năng và đức độ của cụ quả là hiếm có. Xin được tạm khép lại bài viết này bằng bài thơ của tri huyện Thạch Thất Nguyễn Ðình Thành làm năm Giáp Ngọ (1894) bày tỏ lòng mến mộ công đức của Trạng Bùng:

Thái tể đền xưa suối cũ đây

Thơm thơm hương cỏ gió đưa bay

Trung hưng dựng nghiệp trời Nam rạng

Vạn thọ thơ ngâm đất Bắc lay

Giỏi hứng suối đèo đen đổi trắng

Hòa lòng trăng nước cảnh ai hay

Ðến nay còn chốn Sài Sơn ấy

Hai chiếc cầu tiên ẩn gió mây.

(Bản dịch của Trần Lê Sáng)

* Nghiên cứu thơ văn Phùng Khắc Khoan, thấy rõ ở đấy tâm trạng chung của tầng lớp trí thức đương thời, mong muốn được cống hiến, nhập cuộc để vực kỷ cương, xây đạo đức, trị loạn, an dân mà nổi bật là lý tưởng "Vua thánh tôi hiền, thái bình thịnh trị".

* Là một mệnh quan triều đình, Phùng Khắc Khoan không những thấu hiểu mọi ràng buộc, thâm trầm trong chốn triều chính mà còn luôn mở lòng hướng đến nhân dân. Trong cuộc đời làm quan 50 năm của mình, cụ được biết đến với những đóng góp quan trọng trong chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa được nhân dân hết sức ngưỡng mộ. Sau này, nhiều giai thoại dân gian cũng từ đó mà sinh ra.

 

PHÙNG VĂN KHAI