NHÀ VĂN HOÀNG QUỐC HẢI
TRÁI TIM ĐẬP THĂNG TRẦM
CÙNG CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ
PHÙNG VĂN KHAI
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu
- Trần Nhân Tông -
Năm 2006, nhà văn Hoàng Quốc Hải đã lần đầu tiên cho tái bản trọn bộ (bởi trước đây, ông cứ viết xong cuốn nào, nhà xuất bản in luôn cuốn đó). Bộ tiểu thuyết lịch sử về thời đại nhà Trần với hơn 2000 trang gồm bốn cuốn: Bão táp cung đình - Thăng Long nổi giận - Huyền Trân công chúa vàVương triều sụp đổ;như thế đủ biết sự lặng thầm trong công việc nhà văn, lại là nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử, một sức lao động kinh người ở một con người nhỏ nhẹ từ ăn nói sinh hoạt đến quan hệ xã hội, bạn bè mặc nhiên gieo vào trong tôi và nhiều bạn viết trẻ một sự kính trọng.
Theo như tôi biết, sinh thời nhà văn Nguyễn Tuân vốn rất khó tính trong đánh giá văn chương của người viết trẻ, đã ưu ái Hoàng Quốc Hải và dường như kỳ vọng cậu thanh niên nhỏ nhẻ vóc vạc thư sinh theo một linh cảm nào đó đã bẩm sinh trong con người nhà văn “phức tạp” cao khiết này. Điều này giải thích tại sao tính cách “ông Hoàng” hiện nay sao mà nhiều nét có ở “cụ Nguyễn” ngày trước đến vậy.
*
* *
Tôi quen biết và được làm người bạn nhỏ với nhà văn Hoàng Quốc Hải, trong một Hội thảo về sáng tác văn học ở trại viết của Quân đội năm 1998 tại nhà sáng tác Tam Đảo. Ông là khách mời, bởi ông đang ngồi sáng tác kịch bản phim lịch sử cho Hãng Phim truyện Việt Nam. Không hiểu sao đang bàn bạc về sáng tác văn chương, bỗng nhiên Hội thảo lại chuyển gam nặng tính phê bình văn học. Tất nhiên nhiều người phát biểu. Nhiều người nói to mà không ai nghe vì các nhà văn, người liên quan đến văn chương ở ta rất hay nói chuyện riêng, huống hồ hội thảo. Thế mà nhà văn họ Hoàng loại bé nhỏ, ngồi thom thỏm cạnh mấy ông to béo như bị lút hẳn đi. Tôi quan sát, chỉ thấy ông ngồi im lặng lắng nghe. Mãi hai ba lần giọng mời của người điều khiển Hội thảo, ấy là nhà phê bình văn học Lê Thành Nghị, và cũng chỉ khi Hội thảo sắp kết thúc ông mới nhận lời phát biểu.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải (ngoài cùng bên trái) tại buổi Lễ trao giải thưởng Phùng Khắc Khoan
tại Văn Miếu Quốc Tử Giám
Mặc dù đã sắp hết giờ, ông lại nói nhỏ nhưng rất thu hút sự chú ý của mọi người. Vậy ông nói cái gì? Thực ra là nhà văn nhỏ bé này đòi hỏi - đòi hỏi được cung cấp các nguồn tư liệu. Bởi, theo ông, công tác tư liệu ở ta quá kém cỏi, kém đến mức mù tịt thì bằng bịt mắt người viết, đặc biệt là người viết về lịch sử. Vấn đề càng mở ra. Rồi ai cũng gật gù ừ nhỉ, viết văn mà đi đâu hỏi tư liệu người ta cũng chỉ trỏ quanh co, bí thì chơi trò “đang cấm”, “tài liệu mật”... Người khác và cấp trên thì hô phải viết hay, hoành tráng, chân thật về chiến tranh, về một thời, một ngành nào đó. Cứ thế dẫn đến hội thảo, hội nghị, dẫn đến phát động và vận động, dẫn đến in ấn và tung hô tác phẩm một cách cánh hẩu, và dẫn đến sự thờ ơ, không coi trọng các sáng tác ở độc giả trong nước đã quá sức kiên nhẫn. Ông nhà văn nhỏ bé đột nhiên làm bao nhiêu người giật mình thon thót khi nói: “Ở ta không có tự do (ngừng một tẹo) là tôi nói không có tự do về tư liệu”. Rồi ông dẫn ra khi viết Chiến tranh và hòa bình tác giả của nó, bá tước L.Tolstoi có đặc quyền gõ cửa tất cả các trung tâm tư liệu của châu Âu như thế nào, ai cung cấp, độ chân thực... Rồi ông bảo ông đã dành ra mấy chục năm đi hỏi một cứ liệu lịch sử mà ai cũng biết là phi lý nhưng không nói lại vì sự đã rồi, vì ngại. Đến như tư liệu về các cuộc chiến tranh gần đây thì sao? Ai cung cấp? Cung cấp đầy đủ mới mong manh, nhen nhóm và kích thích tác phẩm hay ra đời chứ. Nhà văn nhỏ bé này lại bảo người viết phải có cái nhìn, thông qua nguồn tư liệu để dẫn đến cái nhìn có tầm khái quát của một vị Tổng Tư lệnh, thậm chí Tổng Bí thư mới hy vọng có tác phẩm hay về chiến tranh (lại nhiều người giật mình về một điều chính đáng đã trở thành quá bức xúc). Tất nhiên ý kiến trên của ông cũng kết thúc. Tiếng hoan hô rất lâu. Rất nhiều người đến bắt tay ông và không ít vị xầm xì. Rồi như thường lệ, chủ tọa nói: “Sẽ xem xét ý kiến của nhà văn Hoàng Quốc Hải” và mời tất cả nghỉ ăn trưa. Bữa ăn trưa ấy với tôi là bữa ăn trưa mà trong đầu toàn “không có tự do tư liệu”.
Đến khi tôi gọi điện báo với nhà văn vừa có ý kiến đòi hỏi về tự do tư liệu rằng ý kiến của ông sẽ được tôi trích phát sóng truyền hình, ông vẫn bảo: “Cậu cứ đùa tớ” giống như lúc tôi ghi phỏng vấn ông và yêu cầu nói thẳng, ông bảo: “Cậu cứ đùa tớ chứ phát sóng thế nào được”.
Và truyền hình đã phát cái phóng sự của tôi có phỏng vấn ông. Ông lập tức phôn cho tôi nửa đùa nửa chúc: “Hy vọng cậu tai qua nạn khỏi”.
Bây giờ nhắc lại cái chuyện ấy tôi vẫn hay trêu ông “Nhà văn Hoàng Quốc Hải có thể được phong anh hùng do sự đóng góp quan trọng của một anh bạn trẻ tuổi dũng cảm vô danh tiểu tốt”. Ông mắng yêu tôi: “Thằng láu cá” rồi cả hai cùng cười vui vẻ.
*
* *
Nhà văn Hoàng Quốc Hải (thứ 2 từ trái sang) cùng đoàn đại biểu Họ Phùng Việt Nam dâng hương tại
Văn Miếu Quốc Tử Giám
Có thể hiểu nhà văn họ Hoàng là người lạ tính cũng chẳng sai ngoa gì, tỉ như bao nhiêu hội nghị, hội thảo mời mọc ông chẳng đi cho, bỗng đâu nằng nặc đề nghị đóng tiền ăn ở sinh hoạt để được tham dự một hội thảo về lịch sử triều Trần mảng Phật pháp, đương nhiên gây khó xử với Ban tổ chức vì rằng chẳng ai dám lấy tiền nong đóng góp của ông làm gì bởi lẽ bao nhiêu người xít xoa bài tham luận của ông sao mà khu biệt và vững chãi làm vậy trong trùng trùng tên tuổi. Rồi lại chuyện ông Hoàng được mời đi thỉnh giảng ở những chỗ thôn cùng xóm vắng heo hút mấy ngày trời, đã trang trọng ứa nước mắt giơ hai tay kính cẩn đón bộ ấm chén Bát Tràng thô mộc thuộc công lênh mấy bữa “hầu chuyện”, mà trưa ấy cũng phong cách ấy ông lại tặng lại các cụ bô lão địa phương để dùng trà, còn bản thân túc tắc xe ôm lẫn hút vào sương nắng phiêu diêu tự tại. Ông Hải lúc nào cũng thưa gửi với cả người dưới, đến nỗi không thịnh tình bố ai chả quan ngại khi tiếp xúc ông dẫu là qua điện thoại. Tính tôi lại trực, lắm lúc thành ngay tán tàn vì lỡ lời, lỡ thái độ với bậc tiền bối liền phải gãi đầu gãi tai tìm cớ bỗ bã cho xong chuyện mà ông chẳng giận cho. Hay ông đã đắc đạo Phật bởi rằng chuyện Phật pháp ông giảng giải với lớp trẻ bọn tôi đã tế vi ảo diệu lắm, cứ như có một vị chân tu ẩn sẵn trong mình mách nước thì phải. Gần đây ông rất hay chu du về Yên Tử hoặc để kiểm chứng một cứ liệu lịch sử, hoặc thẩm định việc người đời đang rầm rộ làm cáp treo lòng người thuận bụng đến đâu cũng chỉ là ông thoái thác lý do thế chứ, tôi ngờ con người này duyên căn Phật pháp từ bao kiếp rồi, như việc ông tự tu tâm cũng đã đắc đạo người từ lâu lắm lắm.
Việc về đạo đã vậy còn như việc đời thì nhà văn nhỏ bé này “rất ham chơi”. Ông đi vắng hẳn nhiên nhiều hơn ở nhà. Ai bảo đi đâu là đi ngay, chả ý kiến ý cò gì cả. Nghĩ đi công tác như ông quả là trần đời tôi chưa thấy ai. Có bận đi một lèo ngót một năm giời vào các tỉnh phía Nam, cơ quan phải gửi lương từ Bắc vào Nam cho ông tiện chi dùng. Ấy là dạo ông la cà tìm hiểu phong tục người Chàm để viết cuốn tiểu thuyết Huyền Trân công chúa. Đã thế ông lại rất ít khi đi theo đoàn rầm rầm rộ rộ, nên càng khó tìm. Đã thế nhà văn họ Hoàng viết báo rất hay có dư luận nên nhiều người tìm lắm, có cả những ông chính quyền cỡ lớn cũng đi tìm để có ý kiến. Có loạt bài của ông động đến một vấn đề rất lớn trong việc xây dựng tuyến cáp treo Yên Tử, và lập tức Chính phủ căn cứ trên đó để ra một số quyết định thì xem ra không phải chuyện thường nữa. Rồi như bài Trắng án Nguyễn Thị Lộ cũng nhiều luồng dư luận. Hẳn là thăng hoa chăng khi bênh vực người con gái tài hoa lỗi lạc cách đây gần sáu trăm năm, nên ông đề nghị nên lập một phiên tòa hiện nay để xử, chứ một người tinh tường như ông lạ gì án iếc ở ta quá mấy mươi năm là hòa cả làng ấy thôi.
*
* *
Lại nói đến sở trường sở đoản của ông là làm cho trái tim của bao nhiêu nhân vật lịch sử đập trở lại, đập trung thực, đập dạt dào miên viễn và vĩnh cửu xôn xao cùng trái tim của những con người đang sống trên trần gian hôm nay, cũng chính là nhịp đập của trái tim ông nữa. Tôi hết sức kinh ngạc từ hơn 2000 trang sách tái tạo toàn bộ lịch sử triều Trần, triều mà vượng khí của non sông đất nước đã sinh ra biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt. Qua ngòi bút và trái tim ông, những Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Trần Khát Chân, Trần Quốc Toản... và cả các vị vua ở ngôi cao kia, sao mà gần gũi thiết thân cụ cựa quá đỗi làm vậy, có thể sờ nắn được, trò chuyện được hoặc lo nghĩ hoặc hồi hộp theo mỗi diễn tiến nhỏ của hàng ngàn trang sách.
Trái tim ông nhạy cảm nhường nào với con người lắm công nhiều tội, con người sắt đá cũng phải lao xao bàn tán gán ghép huống hồ miệng lưỡi thế gian là vị Khai quốc triều Trần - Trần Thủ Độ cứ như một ngòi bút phàm phu tục tử nào mà đụng phải ngài Khai quốc thì ngài thảy đều mắng giết như miệng vợ ngài vẫn bảo ngài có thể làm ra lịch sử thì cái tâm minh định của nhà văn ắt phải cao trọng đến nhường nào. Biết bao đêm tôi đã thức trắng cùng nhân vật Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Đã một dạo tôi lấy làm ái ngại khẩu thì phục mà tâm bất tuân với một bậc cao niên rất am hiểu thơ văn Lý - Trần đĩnh đạc khẳng định rằng Quốc công Tiết chế là vị Vua không ngai, và rằng ở Trung Quốc hoặc ở ta cũng có vài vị như thế. Kiến văn tôi sao hạn hẹp chẳng dám thưa lại với thầy, chỉ đến khi nhà văn họ Hoàng cẩn bút những trang về Đức Thánh Trần tôi mới như được khai thông ẩn ức. Trái tim Hoàng Quốc Hải đã run lên, thắt lại, sôi bùng hay chín nhịn thẩy đều dẫn đến việc tạo một bức tượng Thánh Trần đằm đẵm chất người. Hẳn ở nơi cực lạc, Quốc công đã mỉm cười thư thái khi có một nho sinh cách ngài trên bảy trăm năm đã thấu rõ ý ngài như tri kỷ. Chi tiết ván cờ thế mà Quốc công bày mời Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải khi tiếng vó ngựa giặc Mông Thát đã ầm ầm sát cửa biên thùy đến nay có lẽ là duy nhất “nảy ra” ở một nhà văn. Ván cờ ấy đã khai triển bất phân thắng bại trọn vẹn một ngày tưởng như hóa giải một nghi ngờ của quân xiểm nịnh âm ỉ về ngôi trưởng - thứ mấy ai hay ẩn ý thâm viễn của Đức Thánh còn nhằm khẳng định một phương lược bang giao kình chống với đại địch suốt nghìn năm. Và Thượng tướng quân Trần Quang Khải - một đại thần quang minh lỗi lạc từ việc ứa nước mắt với người anh thúc bá trong veo tấm lòng nghiêm cẩn lại làm rung động bao nhiêu người bỗng khi Thượng tướng xách hũ rượu la cà mời vua mời lính rồi thì ngẫu khúc mà nảy áng thơ văn trác việt: Tụng giá hoàn kinh sư:“Đoạt sáo Chương Dương độ -Cầm Hồ Hàm Tử quan - Thái bình tu trí lực -Vạn cổ thử giang san”đủ thấy trái tim nhà văn đã nhuần nhụy lặng lẽ thăng hoa đến mức nào. Rồi thì trái tim họ Hoàng bỗng đâu thăm thẳm cùng công chúa Huyền Trân giờ ly biệt thượng hoàng cùng non sông sang làm dâu đất khách. Một trái tim hai nền văn hóa Việt - Chàm cùng thổn thức ngân lên mà có bao giờ sự trân trọng văn hiến không sinh sôi những lễ, hội, tết, nhạc, những đất đai mùa vụ như một giống lúa Chiêm làm ví dụ cũng là dụng ý của nhà văn nhỏ bé này thôi.
Tôi đặc biệt thích cuốn Thăng Long nổi giận trong bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ này. Cuốn sách vừa đạt độ chân xác về lịch sử vừa văn chương lắm lắm. Tôi đọc cuốn sách lần đầu khi còn là một anh lính binh nhì côi cút gác kho ở vùng thâm sơn cùng cốc. Cuốn sách chảy thẳng vào huyết quản tôi đã lưu thông mãi tận bây giờ. Từ những trang sách đầy hào khí dân tộc ấy, đã giúp tôi tự giữ nghiêm mình trước bao nhiêu khốn khó, đặt việc học đạo làm người lên trên hết thảy, rồi quyết chí bồi đắp tri thức qua tự học, tự đọc cũng là mạnh dạn cầm bút đến với văn chương. Không có những trang sách truyền lửa dân tộc, truyền chí khí và cả sĩ khí ấy của nhà văn, hẳn nhiên nghề nghiệp và cả tương lai của tôi chắc chắn đã khác đi nhiều.
Như là nhân cách cao trọng của nhà văn đã chuyển động toàn vẹn vào tập sách này, và tôi đã xin phép nhà văn nói với ông rằng tính đến hôm nay, trong số tác phẩm đã in thì đây là cuốn hay nhất. Ông mủm mỉm bảo tùy cậu lại chui chúi đọc sách hoặc lơ đãng nghĩ suy đâu đâu. Dù tếu táo tôi chưa hỏi nhà văn nhịp tim của ông là bao nhiêu, mà lẽ gì nhịp nhàng đến vậy trong biết bao nhân vật lịch sử đã cách nay ngót chục thế kỷ. Trái tim nhà văn nhỏ bé thư sinh này, như là sinh ra để đập tiếp nhịp đập hào hùng của anh hùng hào kiệt, của văn hiến Đại Việt, của linh khí Thăng Long. Đến ngay như phản vương Trần Ích Tắc mà ông Hải đã đâu nỡ hạ nhục bằng ngôn ngữ vốn là thế mạnh của ông, lại còn phần nào chiêu tuyết từ những trang viết rất đặc sắc về tài thi thơ hội họa của Vương. Đến nỗi tôi đã phải thưa với nhà văn rằng: “Cớ gì nhà văn ân tình với Chiêu Quốc vương đến vậy?” Ông Hải không nói, lại cười hiền hậu và tôi đã biết tỏng câu trả lời từ một ý cực hay của vua Trần Nhân tông cũng trong cuốn sách trên, khi bỗng đâu có viên quan nội hầu trình lên Vương thượng những bức thư xin hàng hoặc ước hàng và cầu cạnh của đám tôn tộc phản quốc hoặc sắp phản quốc, vua bèn buồn lòng bảo “Thế giặc mạnh nhường ấy, đến như ta còn có lúc xao lòng, bây giờ đâu phải lúc bới móc nhau ra, mà phải gắng sức kiến thiết quốc gia cho vững mạnh, biết đâu giặc không còn sang xâm lấn”, thì tôi đã như đo được nhịp tim chan chứa yêu thương, đại lượng, bao dung thật trong sáng vô ngần của nhà văn - người thầy nhỏ nhắn mà tôi hằng kính trọng.
Và ngay sau khi bộ tiểu thuyết lịch sử của ông vừa in trọn bộ, Tổng Biên tập tuần báo Văn nghệ - nhà thơ Hữu Thỉnh (khi ấy) đã tổ chức một cuộc hội thảo, trao đổi mang tính lý luận về sáng tác tiểu thuyết lịch sử. Giới trẻ chúng tôi rất cần các bậc đàn anh đang chờ đón các bậc đàn anh luận bàn, mà bàn thấu đáo, bàn hay như ở “Bình Than”, ở “Diên Hồng” thì quý lắm.
*
* *
Nhà văn Hoàng Quốc Hải trả lời phỏng vấn kênh H1 và QPVN tại cuộc Hội thảo "Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng - Thân thế, cuộc đời và sự nghiệp" 2019
Nhà văn Hoàng Quốc Hải đã lên bục giảng của trường Đại học Viết văn Nguyễn Du giảng bài cho chúng tôi nghe. Cua giảng ấy ngắn thôi, diễn ra có mấy buổi trong vài tuần mà tôi còn vinh dự được làm xe ôm đưa đón người thầy do các bạn tín nhiệm. Hẳn các anh chị và các bạn khóa VI còn nhớ cua giảng của thầy Hải về tiểu thuyết lịch sử, ai nấy quá ngạc nhiên về tri thức và sự hồn nhiên lãng mạn của con người có lẽ làm nhà giáo cũng rất hợp này. Chúng tôi sao nhiều may mắn thế, khi được rất nhiều nhà văn - thầy giáo kiến thức thâm viễn, nhân cách cao khiết giảng bài như thầy Hoàng Ngọc Hiến, thầy Đỗ Đức Hiểu, thầy Hoàng Như Mai, thầy Đỗ Lai Thuý, thầy Trần Ngọc Vương, thầy Trần Hinh, nhà văn Ma Văn Kháng, nhà văn Lê Lựu, nhà thơ Trần Đăng Khoa... mà lớp viết trẻ bọn tôi như còn mắc nợ với biết bao tâm huyết của các thầy bởi sáng tác của mình còn quá mỏng.
Cũng trong cua học ấy một hôm cả lớp đã lặng đi khi ông đặt câu hỏi làm thế nào để người hiền tài xuất hiện? Lại làm thế nào để sử dụng, trọng dụng cất nhắc đúng chỗ, đúng việc cho người hiền tài thì chẳng ai bảo ai đều ngồi ngay ngắn hẳn lên. Cũng có người mạnh dạn trả lời nhưng hẳn là thầy không mãn ý và hẹn một dịp nào đó các bạn trả lời thầy cũng được. Đến hơn năm giời tôi quên bẵng câu hỏi nọ của thầy thì anh Viễn Sơn một đồng liêu của tôi khăn áo tề chỉnh nhất định bắt tôi chở đến thầy Hải và hôm ấy nhà văn đã ưng ý một nhận định mạnh dạn còn khen Viễn Sơn có cái đức của đạo học trò. Hiền đến vậy nhưng thầy cũng rất nghiêm khi một bạn nữ cùng khóa học quen cung cách báo chí chụp giật sỗ sàng chưa có ý thầy đã vung vẩy đặt câu hỏi phỏng vấn và thầy đã buồn lòng nói với tôi, với anh Sơn cùng một đồng liêu nữa về sự thất đức của một số người cầm bút, tôi đã rùng mình nghĩ đến một chi tiết cực đắt trong cuốn Huyền Trân công chúa khi vua Trần Nhân Tông (đã xuất gia) đàm đạo với quan ngự sử trẻ tuổi Đoàn Nhữ Hài vì sao ngài đã mật cho quan gia đương triều (tức vua đang trị vì) không nên thăng chức quá cao cho Trần Khắc Chung vì ngài đã đọc ra ở con người có tài này đức còn quá mỏng.
*
* *
Nhà văn Hoàng Quốc Hải rất trân trọng anh em viết trẻ. Trân trọng đến mức thái quá thì phải, nhưng cũng rất cụ thể thiết thân thực người thực việc. Hôm tôi báo cáo với nhà văn về ý tưởng cùng nhà thơ Nguyễn Thành làm đặc san văn nghệ cấp huyện cho huyện tôi (huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên năm 1998), vì ở đấy có biết bao con người yêu văn chương nghệ thuật, quê của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan thì việc làm ra một văn phẩm để anh em sinh hoạt cũng là một việc cần thiết. Tôi phác thảo sơ sơ mà nhà văn đã hào hứng lắm, ủng hộ lắm, đóng góp ý kiến rất cụ thể tỉ mỉ. Qua bao nhiêu khó khăn đặc san Văn hoá Văn nghệ Văn Lâm cũng ra đời. Dạo ấy trời giông gió sấm chớp rất ghê gớm. Hôm ra mắt, các nhà văn Hoàng Quốc Hải, Lê Lựu, Chi Phan, Đinh Quang Tốn, Tô Đức Chiêu... đội mưa đội gió về với anh em, nhiều văn nghệ sĩ chúc mừng qua điện báo, điện thoại, có một vị cán bộ cao cấp cũng tham dự động viên rất xúc động. Rồi nhà văn Hoàng Quốc Hải được mời lên phát biểu. Thật bất ngờ, ông đã biểu dương tôi như kiểu tuyên dương học sinh giỏi (đã ngót hai mươi năm nay, tôi chưa được biểu dương trước chốn đông người bao giờ, ngoài chuyện toàn phải viết bản kiểm điểm vì cá tính của mình). Đặc san giờ vẫn vững, vẫn ra đều, và cố vấn tinh thần cho ấn phẩm văn hóa ấy là một ông nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải như là quá đỗi thanh nhàn trong công cuộc gia đình. Vợ ông là nhà thơ Nguyễn Thị Hồng nấu ăn cực ngon, cứ lâu lâu tôi lại tạo cớ nhỡ bữa đến “xin ăn xin ở”. Gia đình ông là gia đình văn chương thuần khiết. Hai con một trai một gái vừa làm đâu đấy thi thoảng có tham gia dịch một vài cuốn tiểu thuyết. Một hôm thế nào đó, cô bé Hoàng Hà tếu táo xin bố cho vào Hội Nhà văn Hà Nội. Vẫn nhỏ nhẹ như thường, nhà văn họ Hoàng hỏi động cơ của cô con gái rượu, rồi đùa lại, đẩy cô bé vào thế khó xử. Chao ôi, nghiêm theo kiểu này tôi chưa thấy ở đâu. Cũng lại quá là hài hước. Con thuyền này có lẽ chống được sóng gió chăng, cả sóng gió ngầm chăng mà cứ hồn nhiên hồn hậu thế kia, an nhàn an sinh thế này, còn gieo vào nhiều người sự ngạc nhiên thú vị và đôi khi cả thắc mắc nữa.
Ví dụ như là thắc mắc nhà văn Hoàng Quốc Hải viết lách vào lúc nào, đêm hay ngày, cửa giả hương án gì không chứ tính ông cẩn trọng lắm. Sách ra nhiều, báo in nhiều mà cứ đi khơi khơi, biền biệt thế thì ông viết vào lúc nào nhỉ, tôi đã lại đùa: “Nhà văn Hoàng Quốc Hải có vợ viết hộ nên văn vừa nhiều vừa hay” đã làm bà nhà thơ nhay nhảy: “Chú Hải còn sửa thơ giúp cô đấy, Khai ạ” thật cứ như là mê hồn trận, khăng khít tít mù mà bén duyên nhau.
Tôi đồ rằng lúc ông đi chính là đang viết đấy. Ông viết nhanh và đọc nhanh kỳ lạ. Không thuốc, kiệm rượu là để tiết kiệm thời gian chăng, mà sao có lúc vẫn lầm lụi bia bọt cả ngày, hé ra có bạn ngồi là ngồi liên miên thế được? Năm 2002 ông xuất bản cuốn Văn hóa phong tục ngót 600 trang, gieo thêm vào tôi sự sững sờ từ cách đi thực tế và tiếp cận tài liệu thần tốc. Ông cứ nhẩn nha mà cấp kỳ biết mấy, trí nhớ ông nhà văn nào chả gớm, và chuyện ông Hải nhớ lịch sử thì e rằng phải kể ra ở một bài viết khác, bởi trong đó có những chuyện cười ra nước mắt và tôi vô tình được biết xuất xứ từ cái trí nhớ siêu phàm của ông.
Mà lại còn tìm hiểu cái gì cũng chân tơ kẽ tóc, cứ như người ta có khuyết điểm khi không chịu cung cấp tư liệu gốc cho mình không bằng. Rồi đối chiếu suy ngẫm cứ như lịch sử sai sẩm ở đâu đó dẫu mấy trăm năm còn như cháy nhà chết người đến nơi. Một hôm thế nào tôi lại thấy ông có vẻ cáu giận lắm. Hóa ra có một chi tiết về lịch sử một “ngài” cỡ bự nào đó viết sai, mà không chịu sửa lại còn to miệng chống chế làm ông buồn bực. Hoặc như Sử thần Ngô Sĩ Liên lừng lẫy còn bị ông Hải cáo giác trong bài Trắng án Nguyễn Thị Lộ được tặng thưởng của Báo Văn nghệ mà ông Hải bảo khoái là khoái ở chỗ mấy ông bạn già bia bọt vào tấn phong ông Hải cứ như án oan được xử lại đến nơi, thậm chí có ông còn dương dương trên mặt báo đòi thành lập phiên tòa ngay lập tức.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải đang vừa đi chơi bạn hữu đa tuổi tác ngành nghề, vừa gấp rút hoàn tất bộ tiểu thuyết lịch sử triều Lý, chắc sẽ là một thành tựu mới trong đời văn của ông. Trái tim ông, còn đập về cơ học hẳn nhiên là dành cho các nhân vật lịch sử. Trái tim ông bao giờ muôn tuổi thôi đập về cơ học thì chắc hẳn đã đồng thuận với các nhân vật lịch sử từ rất lâu rồi...