(Thứ năm, 08/12/2016, 06:56 GMT+7)

THAM LUẬN HỘI THẢO KHOA HỌC
PHÙNG TÁ CHU - THÂN THẾ - CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP

 
 

VAI TRÒ CỦA PHÙNG TÁ CHU
TRONG BUỔI ĐẦU KHỞI DỰNG VƯƠNG TRIỀU TRẦN - DÒNG HỌ ĐÔNG A

 

Tiến sĩ Phùng Thảo
 

1. Những mầm họa dẫn đến nhà lý mất ngôi báu.
Vương triều Lý thay thế nhà Tiền Lê năm 1010, Lý Công Uẩn vị vua đầu tiên của nhà Lý, với công lao to lớn rời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, tiếp đến Thái Tông (Lý Phật Mã), Thánh Tông (Lý Nhật Tôn), Nhân Tông (Lý Càn Đức) đều là các vị vua hiền, thông tuệ. Lý Thần Tông (Lý Dương Hoán) lên ngôi năm 1128 là vị vua biết dùng người hiền tài, thủy chung nhất nhất, Vua Anh Tông (Lý Thiên Tộ) biết trọng người hiền tài, nhưng lại để gian thần thao túng, khiến giặc cướp nổi lên khắp các vùng miền của đất nước. Đến đời vua Lý Cao Tông (Lý Long Trát) 1176 - 1210, ông này ham chơi vô độ, hình chính không rõ ràng, triều đình thiếu kỷ cương, phép nước buông lỏng, giặc cướp nổi lên như ong khắp nơi, loạn lạc, mất mùa liên miên, vua Cao Tông thích xây dựng cung điện, thích nghe nhạc Chiêm Thành, ưa nghe xiểm nịnh, ham thích của lạ, không phân biệt được người tốt kẻ xấu, ham của cải, lợi lộc, lấy việc bán quan mua ngục làm chính sự, đời sống dân tình đói khát, cơ cực… Sách Việt sử lược đời Trần thế kỷ XIV chép rằng: Vua cho “xây cung mới tại phía tây tẩm điện, ở giữa đặt điện Thâm - thụy, bên trái dựng điện Dương - minh, bên phải dựng điện Thiềm - quang, đằng trước xây điện Chín - nghị, ở trên xây điện Kinh - thiên, thềm gọi là lê giao, ở giữa mở cửa Vĩnh - nghiêm, bên phải mở cửa Việt - thành, thềm gọi là Ngân - hồng, đằng sau mở điện Thắng - thọ, ở trên xây gác Thắng - thọ, bên trái xây gác Bạch - kim, bên phải xây gác Nguyệt - bảo, chung quanh xây dựng hành lang, thềm gọi là Kim - tinh. Bên trái Nguyệt - bảo đặt tòa Lương - thạch, phía tây gác xây Dục - đường (nhà tắm), phía sau xây gác Phú - quốc, thềm gọi là Phượng - tiêu, phía sau dựng cửa Thấu - viên, ao Dưỡng - ngư (nuôi cá), trên ao xây Ngọa - y, ba mặt dinh trồng hoa thơm cỏ lạ”.1 Đất nước lúc này người hiền tài quí hiếm rất ít, quan lại xung quanh vua chỉ chăm lo thu vén làm giàu, bòn rút của cải dân lành, ít người quan tâm đến chính sự. Bên trong triều chính đại loạn, quyền thần xưng hùng xưng bá, chém giết lẫn nhau, gây bè kéo cánh làm phản. Phạm Du làm phản ở châu Nghệ An, Đoàn Thượng cát cứ ở Hồng Châu (Hải Dương), Nguyễn Nộn xưng hùng ở Bắc Ninh, ở đời vua Lý Cao Tông đã để xảy ra nhiều năm mất mùa đói kém, điển hình, năm 1208 đói lớn, người chết đói nằm chồng chất lên nhau khắp các vùng. Biên cương phía Bắc, thổ phỉ của nước Tống là Vi Tri Cương đánh sang Lạng Châu (Lạng Sơn), biên cương phía Nam, giặc Chiêm Thành quấy phá. Ở Nghệ An, “Phạm Du chiêu tập bọn vong mệnh, tụ tập bọn giặc cướp gọi là hậu nhân (người đi do thám tình hình) ngang nhiên cướp bóc không sợ hãi gì cả. Giặc cướp do đó mà nổi dậy như ong, người Quốc Oai cũng đem đồ đảng đến đóng đồn ở Tây - Kết, người trại Văn - lôi cũng đóng đồn ở sông Đà - mạc. Từ đó, đường đất bị cắt đứt, thuyền bè không đi lại được”2, trong tình hình đó, vua sai thượng - phẩm ngự Phạm Bỉnh Di dẹp loạn, Phạm Du thua phải chạy ra đất Hồng (Hải Dương - Hưng Yên). Bỉnh Di tịch biên gia sản của Du rồi đốt hết. Du và Bỉnh Di vì thế càng thêm thù ghét, oán giận nhau. Trong khi Bỉnh Di mải mê đi trấn át bọn phiến loạn ở khắp nơi, đánh bọn người Hồng là Thượng, Chủ ở Vệ kiều (cầu Vệ) và nhiều nơi khác, thì Phạm Du ngầm sai người về kinh đô đem vàng bạc đút lót cho các quan lại trong triều, vu cho Bỉnh Di tàn ác giết hại người vô tội, kể lể bản thân bị oan ức, và xin về kinh đợi tội. Vua tin lời nói của Du, sai chỉ - hầu phụng - ngự triệu Du về kinh sư. Tháng 7 năm 1209 Bỉnh Di về kinh sư, người của triều đình nói với Di rằng: “Vua đã nghe lời Du trước, giận ông chưa nguôi đâu”3. Bỉnh Di nói rằng: “Ta thờ vua hết lòng mà lại bị người ta nói dèm sao? Huống chi có mệnh vua, ta trốn đâu được?”4. Vua sai bắt Bỉnh Di và con trai là Phụ giam ở Thủy - viện, toan làm tội. Bỉnh Di và con là Phụ đã bị Du và em là Kinh giết chết ở thềm Kim - tinh. Quách Bốc là bộ tướng của Bỉnh Di nghe tin chủ soái của mình chết đã vào cung làm loạn. Sử thần Ngô Sỹ Liên đã bình rằng: “vua mê mải rong chơi, say đắm thanh sắc, ham tiền của, thích xây dựng, dạy tính lười tham cho các quan, gây lòng oán giận ở trăm họ, làm cho cơ đồ nhà Lý phải hao mòn, đến nỗi mất nước. Kinh thư có câu: “Ở trong mê sắc đẹp, ra ngoài mê săn bắn, ham rượu thích nhạc, xây nhà cao, trổ tường đẹp, phạm một trong các điều ấy tất phải bại vong”. Vua phạm đủ các điều ấy, còn nói gì được nữa”5.Vua Cao Tông sợ “chạy đến Qui - hóa giang (Hưng Hóa), còn Hoàng thái tử chạy đến thôn Lưu - Gia thuộc Hải - Ấp (Lưu Gia: Nay là Lưu Xá, huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình) nghe tin con gái Trần Lý có sắc đẹp bèn lấy làm vợ”6. Trong hoàn cảnh đó, họ Trần đã nắm ngay cơ hội, đem gả người con gái út của Trần Lý cho vị vua thứ 8 của họ Lý. Mùa đông tháng 10 năm 1210 ngày nhâm ngọ Lý Cao Tông, húy là Long cán con thứ sáu của vua Anh Tông ốm nặng, mất ở điện Thắng - thọ, thọ 37 tuổi, ở ngôi 36 năm, cái chết của Di đã làm nổ ra loạn Quách Bốc khiến vương triều Lý nghiêng ngả, tạo cơ hội để Huệ Tông đến với người con gái họ Trần và lấy làm vợ, điều đó đã dẫn đến việc bắc cầu để quyền lực nhà Lý rơi vào tay họ Trần, chính lứa duyên giữa Huệ Tông và Trần Thị là cái đầu mối để họ Lý mất nước, họ Trần được nước sau khi Lý Cao Tông qua đời, như vậy mầm họa mất nước của nhà Lý bắt đầu từ ông vua này!
Đến đời Lý Huệ Tông húy là Lý Hạo Sảm, ông là con thứ ba của Lý Cao Tông, ông lên ngôi ở trước linh cữu cha, quần thần dâng tôn hiệu là: Tư thiên, Thống ngự, Khâm nhân, hoành hiếu hoàng đế. Vua lên ngôi trong hoàn cảnh các phe phái trong nước nổi loạn tứ tung, nhiều thế lực không thần phục nhà vua, triều thần kém năng lực, việc chăn dân trị quốc, cũng như các việc nước quan trọng của triều chính đều giao cho kẻ bất tài khiến tình hình đất nước đã rối như canh hẹ lại càng rối thêm, vua đem việc nước giao cho thái úy Đàm Dĩ Mông. Dĩ Mông theo chính sử Đại việt sử ký toàn thư chép rằng, ông là người không có học thức, không có mưu thuật, lại nhu nhược không quyết đoán, vì thế chính sự ngày càng đổ nát. Thế nước mỗi ngày một suy kiệt, mùa màng thất bát, dân tình đói khát cùng khổ, triều đình mất hết năng lực trị vì, các thế lực nổi lên đến mức độ xa giá vua phải xiêu dạt rời bỏ kinh thành đi lánh nạn! Sử thần Ngô Sỹ Liên khi bàn về chính sự nhà Lý đã nói rằng: “Thái tử (Sảm) đi lần này vì nước loạn mà tránh nạn, sao lại buông lòng dâm dục ở ngoài mà tự nhiên phong tước cho người? Bởi Cao Tông rong chơi vô độ, giường mối bỏ hỏng, cho nên mới thế. Nhưng họ Lý nhân thế mà vong, họ Trần nhân thế mà hưng, ấy là do trời cả”7.Trong điều kiện như vậy, họ Trần đã liên kết với họ Tô(Tô Trung từ là người ngoại thích nhà Trần) dẹp các phe phái chống đối triều đình và chống đối cả hai họ là Trần và Tô nữa. Được sự hậu thuẫn, ủng hộ của các trọng thần dưới triều Lý mang tên các dòng họ: Phùng Tá Chu, Phạm Kính Ân, Lê Điện,… Việc tiễu trừ các phe nhóm chống đối, các lực lượng phản loạn đã dần đi vào khả quan, Đoàn Thượng đầu hàng, Nguyễn Nộn ốm chết. Họ Trần tiêu biểu ở đây là những người như: Trần Lý, Trần Tự Khánh, Trần Thừa, Trần Thủ Độ, Trần Thị Dung một mặt danh nghĩa “giúp - phù” nhà Lý dẹp loạn, giữ vững ngai vàng, thế nước, khôi phục kinh đô. Dẹp loạn Quách Bốc, Đinh Khả, Bùi Đô ở châu Đại Hoàng, Đỗ Quảng ở bến Triều Đôn - cửa ngõ của kinh thành Thăng Long, dàn xếp khúc mắc giữa mẹ Huệ Tông với con dâu là Trần Thị Dung, xóa nghi kỵ của vua Lý với họ Trần. Chính trong quá trình liên kết với một số dòng họ tiễu trừ các lực lượng đối lập nói trên để “phù Lý”, họ Trần đồng thời cũng nhân đó củng cố, phát triển và hoàn thiện cả về thế và lực của dòng họ mình. Kinh tế, chính trị, quân sự của dòng họ ngày càng mạnh lên, quyền lực triều chính của nhà Lý vì thế ngày càng rơi vào tay họ Trần. Vua Lý buộc phải giao chính sự cho họ Trần, phong Trần Tự Khánh làm Thái úy phụ chính, Trần Thừa làm Nội thị phán thủ rồi Phụ quốc thái úy, Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ, Trần Bất Cập là cháu họ Trần Thủ Độ làm Cận thị thự lục cục chi hậu là những chức hậu cận, truyền lệnh và đưa đón người ra vào cung vua, Trần Thiêm làm Chi hậu cục, Trần Cảnh làm Chánh thủ, có thể nói, mọi việc lớn nhỏ trong triều Lý đều do họ Trần cai quản, điều hành. Ngai vàng của họ Lý chỉ còn là hình thức “Vỏ Lý ruột Trần”8. Tình hình đất nước tạm thời ổn định, thế quân - dân dần phấn chấn. Mùa xuân năm 1224, vua Lý cho Trần Thừa làm Phụ quốc thái úy, Phùng Tá Chu làm Nội - thị phán - thủ. Lúc này, Lý Huệ Tông ốm nặng, vua uống rượu li bì, thường xuyên say khướt, trong hoàn cảnh như vậy, vua Lý đã gọi Phùng Tá Chu đến bàn rằng, “Trẫm vì bất đức, chịu tội với trời, không có người kế tự, phải truyền ngôi cho con gái, lấy một âm mà chế ngự cả một bầy dương, nếu chúng không theo thì tất phải ăn năn”9. Khi đó, trong triều các quan trọng thần nhà Lý chẳng ai quan tâm đến công việc triều đình, chỉ có Phùng Tá Chu đã lấy gương Lã Hậu và Võ Hậu ở Trung Hoa chứng minh rằng, đã có những người đàn bà làm vua và khuyên vua Lý noi theo tấm gương trên để nhường ngôi cho con gái. Sau khi lập mưu để Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng (Lý Phật Kim), bước tiếp theo, họ Trần lập mưu xuống chiếu truyền ngôi cho Trần Cảnh một cách khôn khéo, nhanh chóng đến nỗi triều thần không kịp phản ứng, mà chỉ biết chấp thuận, tung hô. Họ Trần đã đảo chính cung đình thành công giành được ngôi báu của họ Lý sau 216 năm trị vì, thế là nhà Lý từ hưng thịnh đến suy vong điều đó suy cho cùng cũng là qui luật tất yếu của lịch sử.
Khi “Trần Cảnh lên ngôi, Phùng Tá Chu đã cùng Trần Trí Hoành đem văn võ bá quan, thuyền xe đến phủ Tinh Cương (tức làng Tam Đường, xã Tiến Đức, Hưng Hà ngày nay) để đón Trần Thừa”10.
Như vậy vương triều Lý, từ Lý Thái - tổ đến Lý Huệ tông có chín đời vua, bắt đầu là năm Canh Tuất (1010), cuối cùng là năm Ất Dậu (1225), cộng 216 năm thì mất.Họ Trần được dịp lấy lại giang sơn từ tay nhà Lý lập ra vương triều Trần từ đó.
Từ qui luật của lịch sử về sự suy tàn và hưng thịnh của mỗi chế độ, mỗi triều đại, có thể rút ra một số nguyên nhân họ Trần thay thế họ Lý trị vì đất nước là do:
1- Trước hết, phải nói đến nguyên nhân bên trong, đó là do sự suy đồi của vương triều Lý ở hai đời vua sau đây:
-   Lý Cao Tông là ông vua hoang chơi, tin dùng gian thần, đất nước mất mùa liên miên, dân chúng đói khổ, lòng dân không yên, giặc giã nổi lên, vua thích nghe xiểm nịnh, không phân biệt được đúng sai, tốt xấu dẫn đến loạn Quách Bốc. Trong triều đình, triều thần nhiễu sự, triều chính nghiêng ngả, tạo điều kiện thuận lợi để Thái tử Sảm lấy Trần Thị Dung làm vợ mà thành ra mầm họa mất nước của vương triều Lý sau này bắt đầu từ vụ loạn này. 
-    Lý Huệ Tông là ông vua nhu nhược, đặt tình yêu lên trên việc đại sự quốc gia, bỏ bê việc nước, đem giang sơn phó thác cho người con gái thơ dại, mở đường để họ Trần thâu tóm quyền lực, lấy giang sơn của nhà Lý từ mưu đồ, kịch bản vô cùng khôn khéo, hợp lệ, hợp luật để lập ra nhà Trần mà không mất một hòn tên mũi đạn!
2- Họ Trần với các nhân vật là Trần Lý, Trần Tự Khánh, Trần Thừa, Trần Thủ Độ, Trần Thị Dung đã biết nắm chắc thời cơ, tình thế, chính sự… gả con gái họ Trần cho Thái tử Sảm, khi tình thế và cơ hội vàng xuất hiện, người họ Trần biết đoàn kết, đồng thuận vì sự nghiệp lớn, ví như bà Trần Thị Dung là con dâu họ Lý, là hoàng hậu, là mẹ vua Lý Chiêu Hoàng hẳn bà phải đồng tình với họ Trần và Trần Thủ Độ gả con gái mình cho cháu ruột của mình, phải không luyến tiếc phế bỏ ngôi vua của con gái, để giao ngôi báu nhà Lý cho con rể mình đồng thời là con ruột của anh trai, cháu gọi bà là cô ruột thì quần thần triều Lý còn ai dám nói gì mà chỉ biết tung hô. Ngoài ra, họ Trần biết phát triển kinh tế, xây dựng lực lượng chiến binh, liên minh với một số dòng họ có thế lực trong chính quyền nhà Lý để giành quyền lực của họ Lý về tay họ Trần. Đặc biệt, họ Trần có ông Trần Thủ Độ là người tuy không được học hành, nhưng Trần Thủ Độ có đầy thủ đoạn, mưu lược, quyết đoán, vào thời khắc cần thiết hoặc ông hành động rất tàn bạo, hoặc thái độ cư xử của ông rất khoan dung, ông này đã làm việc gì là làm đến cùng, và ông đã làm tất cả, không từ một việc nhỏ nhất cho mục tiêu phế bỏ nhà Lý, khởi nghiệp, hưng thịnh triều Trần.
3- Họ Trần đã được các họ Tô, Lê, Phạm và Phùng là các dòng họ ngoại thích của họ Trần, những dòng họ này đều là các quan đại thần của nhà Lý, có thế lực, có tài năng, họ đã nhiệt thành giúp sức vì thế mà việc chuyển ngôi báu từ tay nhà Lý về tay nhà Trần đã diễn ra nhanh chóng và thành công mỹ mãn. Trong số các dòng họ giúp họ Trần đắc lực phải kể tới cha con ông Phùng Tá Thang và Phùng Tá Chu.
2- Vai trò của Phùng Tá Chu trong buổi đầu khởi nghiệp xây dựng vương triều Trần - dòng họ Đông A.
Phùng Tá Chu là người thông minh, ông thừa hưởng tư chất thông tuệ của người cha là Phùng Tá Thang. Thủa nhỏ, Phùng Tá Chu học giỏi, được sự dạy dỗ của người cha, lớn lên ông là người có tài năng, văn võ kiêm toàn, ngay từ buổi đầu, họ Trần đã dùng ông dạy võ cho lực lượng chiến binh của dòng họ. Ông được tiến vào cung nhà Lý giúp đỡ Thái tử Sảm. Thủa hàn vi, Tá Chu đã có liên hệ chặt chẽ với họ Trần. Ông kết nghĩa anh em với Trần Tự Khánh, giúp đỡ họ Trần lập nghiệp.Làm quan thời Lý, ăn cơm nhà Lý, khi chế độ nhà Lý suy đồi ông đã nhận thức đầy đủ trách nhiệm là bầy tôi đối với vương triều mà ông đang phò tá. Tá Chu đã cùng một số quan trong triều cố gắng khuông phò hòng góp phần cứu nguy cho nhà Lý, nhưng dòng chảy của sự suy tàn của lịch sử triều Lý không ai có thể ngăn cản được và nó cũng đã chảy đến hồi kết cục, sự cố gắng của ông phò nhà Lý không thể giúp ích được gì. Trong Tổng tập Nghìn năm Văn Hiến Thăng Long có chép rằng: “Đất nước lúc này đã lâm vào tình trạng suy đồi, vì sinh thời Vua cha là Lý Cao Tông đã rất bê tha, các vị quan phò tá cho Vua như Đỗ Kính Tu, Phùng Tá Chu tuy cũng có cố gắng ít nhiều, song chẳng giúp được nhiều cho chính sự. Lý Huệ Tông lên ngôi, việc đầu tiên của ông lại là lo lắng cho mối tình đầu của mình, chứ không chú ý đến quốc gia đại sự. Mọi công việc ông giao cả cho Đàm Vĩ Mông, nhưng vị quan này theo sử chép, lại là “người không có học thức, không có mưu thuật, nhu nhược không quyết đoán, chính sự ngày một đổ nát”11. Khi triều Lý suy tàn đến độ không thể cưỡng nổi, hàng ngũ quan lại của vương triều bỏ bễ công việc triều chính, chuyên tâm đục khoét dân lành, tranh giành quyền lực, âm mưu làm phản, thì cũng chính Phùng Tá Chu đã nhìn thấy sự sụp đổ không thể tránh khỏi của vương này, đồng thời ông cũng nhận diện được trong vô số các lực lượng muốn lật đổ, tiếm quyền nhà Lý, chỉ có họ Trần là hội tụ đầy đủ các phẩm chất để trở thành vương triều mới gánh vác sứ mệnh lịch sử quốc gia thay thế nhà Lý, dẹp loạn bên trong, chống lại giặc ngoại xâm ở bên ngoài, xây dựng đất nước, đem lại đời sống tốt đẹp cho nhân dân - “chăn dân trị quốc”. Vì thế, mà ông đã không ngần ngại, không luyến tiếc một vương triều đã mục nát, Phùng Tá Chu đã dũng cảm vượt qua nhiều rào cản của quan niệm xưa, phong kiến về lòng ái quốc, trung quân theo Khổng giáo đã ngự trị sâu sắc trong lòng dân chúng đó là: Làm bề tôi trung không thờ hai vua. Trái lại, Phùng Tá Chu Làm quan hưởng lộc nhà Lý, nhưng không vì thế mà làm ngơ, phớt lờ trước sự đòi hỏi của nhân dân, của đất nước, cứu nguy dân tộc. Ông đã dứt khoát đứng về phía họ Trần, nhiệt thành giúp đỡ họ Trần giành ngôi báu từ tay nhà Lý một cách hòa bình, không có đổ máu. Sử thần Ngô Sỹ Liên khi đánh giá về sự kiện này do hạn chế của quan niệm phong kiến về bề tôi trung, ông chỉ nhấn đến đòi hỏi của bổn phận làm “bề tôi trung thì không thờ hai vua” vì vậy mà trong Đại việt sử ký toàn thư ông đã chép rằng: “…Các quan bấy giờ không ai nghĩ đến xã tắc, để cho Phùng Tá Chu viện dẫn việc Lữ Hậu và Vũ hậu làm cớ mà thành ra việc Chiêu Hoàng nhường ngôi cho họ Trần, ấy là người có tội với nhà Lý”12 .
Khi còn làm quan nội hầu, là Đô trưởng nhập nội thị sai, là Quan nội điện trực từ thời nhà Lý, ngay từ khi đó, ông đã liên hệ và nhiệt thành giúp họ Trần, có thể dẫn ra một số ví dụ như:
1 - Đưa Trần Thị Dung về kinh sư với Thái tử Sảm. “Tự Khánh sai nội - điện - trực là Phùng Tá Chu cùng tì tướng là Phan Lân, Nguyễn Ngạnh đưa con gái thứ hai nhà Trần về kinh sư”13.                           
2 - Phùng Tá Chu là người được vua Lý hỏi ý kiến, trong lúc các quan lại nhà Lý không quan tâm đến triều chính, hoặc còn đang do dự chưa biết hành xử thế nào, thì ông đã thẳng thắn khuyên Lý Huệ Tông nên noi gương Lã Hậu và Võ Hậu ở Trung Hoa nhường ngôi báu nhà Lý cho con gái là Chiêu Hoàng. Để thực hiện kế hoạch nhường ngôi báu, một câu hỏi đặt ra, người họ Trần thời bấy giờ liệu đã đủ năng lực, bản lĩnh để soạn chiếu cho vua Lý nhường ngôi báu cho Trần Cảnh không? Nếu chưa, thì việc ấy chỉ có thể họ Trần giao cho Phùng Tá Chu làm? Trong Tổng tập nghìn năm văn hiến Thăng Long có viết: “Những việc quân sự chủ yếu là do Trần Thủ Độ nắm, việc chính trị thì nhờ có cha làm Thượng hoàng giúp đỡ, song những người này cũng có nhiều hạn chế… những quan lại có tài năng ở triều nhà Lý trước đây đều được sử dụng để phục cho chế độ mới, vì lúc này, các nhân vật xuất sắc trong họ Trần còn phải được tôi luyện dần dần cho đến độ trưởng thành. Bởi thế, những ông như Phùng Tá Chu, Phạm Kính Ân đều được giao trọng trách lớn, phong quan chức rất hậu”14.Và sử thần Nguyễn Nghiễm trong Đại Việt sử ký tiền biên cũng với quan niệm phong kiến đã chép rằng: “…Hai gã họ Phùng, họ Phạm là bề tôi cũ của triều Lý, một mai đổi vua mà không hề áy náy trong lòng… Đến nay thì kẻ lớn được phong vương, kẻ nhỏ phong hầu trước sau được hiển vinh đãi ngộ hết mức. Không biêt nhà Trần khen gì ở hai người ấy và hai người ấy vẫn mặc nhiên nhận, sao mà không hổ thẹn?”15.
3 - Trong hoàn cảnh anh em vua nhà Trần có mâu thuẫn với nhau, Phùng Tá Chu là người đã góp phần hòa giải mâu thuẫn giữa Trần Cảnh và Trần Liễu.
4 - Ngày Trần Cảnh lên ngôi, Phùng Tá Chu đã cùng Trần Trí Hoành đem văn võ bá quan, thuyền xe đến phủ Tinh Cương để đón Trần Thừa. Vua Trần rất tin trọng và quí ông, buổi đầu triều Trần, ông được vua giao chức Thái phó phụ chính, tước Hưng nhân vương đại vương.                          
5 - Ông đã có công giúp vào việc tổ chức triều chính nhà Trần.Giáo sư Lê Văn Lan, trong bài viết của mình với nhan đề: Ở miền “đất Rồng hưng thịnh” cũng đã khẳng định rằng: “…may nhờ có tâm huyết và tài năng của những người như Trần Thủ Độ, Phùng Tá Chu, dòng họ nhà Trần mới tổ chức thành công được một cuộc đảo chính cung đình ngoạn mục và vì nhà vua còn bé, nên ngẫu nhiên mà thành ra sự sáng tạo độc đáo của nhà Trần: Cha đẻ của vua được tôn làm “Thượng hoàng”! Đó, đầu tiên là Thái tổ Trần Thừa. Cùng với các nhân vật họ Trần khác, của vua - có vai trò không kém quan trọng: Trần Thủ Độ - chú họ của vua - làm “Thái sư, Thương phụ”, Trần Thị Dung - cô ruột của vua, đồng thời là mẹ đẻ lần lượt cả hai hoàng hậu của vua - làm “Linh Từ Quốc mẫu”, Trần Liễu (Ông Cá Nheo) - anh ruột của vua, làm “Hiển hoàng”, Phùng Tá Chu - láng giềng ở Hải - Ấp của vua, làm “Thái phó”… tất cả đã nhanh chóng họp thành bộ máy triều chính, mới mẻ nhưng năng động, hiệu quả, ở thời Dựng Trần của dòng họ Đông A - nhà Trần”16.
6 - Khi làm Tri châu Nghệ An xét duyệt dựng lập trang ấp, ông được vua trao quyền phong các chức dịch tá nhân, xá nhân rồi về triều tâu sau. Công việc vua Trần giao ở đây ông đã hoàn thành, lập công lớn, Vua Trần phong Thái ấp cho ông ở Hưng Nhân (cạnh làng Mỹ Xá) lấy tên đất ấy để phong vương.
7 - Từ Tri châu Nghệ An về kinh đô, Phùng Tá Chu đã cùng một số đại thần xét duyệt mở các kỳ thi chọn hiền tài cho đất nước, định thể lệ tước vị cho hoàng thân quốc thích, văn thần, võ tướng của triều Trần.
8 - Ông có tài về kiến trúc, ông được nhà vua cử về Nam Định trông coi việc xây dựng cung điện ở Thiên Trường (Tức Mặc) để vua lấy chỗ đi lại hàng năm, sau lại được vua giao vào Thanh Hóa xây dựng 5 hành cung.
Phùng Tá Chu là một trong rất ít khai quốc công thần ngoài dòng họ Trần được vua Trần phong chức Nhập Nội thái phó, tước Hưng nhân vương đại vương khi ông còn sống. Ông được liệt vào hạng đệ nhất công thần của nhà Trần. Sau khi mất, để ghi nhớ công ơn của ông, nhân dân làng Mỹ Xá (Tiến Đức) thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tôn thờ ông làm phúc thần của làng và thờ ông tại Miếu Mẽ. Nhân dân làng Quảng Bá, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội đã tôn thờ ông làm phúc thần của làng và phối thờ ông cùng Bố Cái đại vương - Phùng Hưng ở đình làng Quảng Bá. Địa danh huyện “Hưng Nhân” tách ra khỏi huyện Ngự Thiên sau này đã được mang tên tước hiệu của ông (huyện Hưng Nhân có từ lâu đời, đến năm 1969, Hưng Nhân sáp nhập với Duyên Hà thành huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay).
3- Một số kiến nghị:
Phùng Tá Chu là nhân vật lịch sử lớn cuối vương triều Lý, đời đầu vương triều Trần, ông là người có công đóng góp vào sự nghiệp khởi dựng nhà Trần. Phùng Tá Chu sinh cách chúng ta hơn 800 năm, tài liệu viết và lưu giữ về ông hiện nay rất hiếm. Nhiều thế hệ trong thời đại chúng ta ít có điều kiện để đọc hiểu về thân thế sự nghiệp của ông. Ông làm quan, phò tá cho hai triều đại Lý và Trần, với quan điểm lịch sử và biện chứng, khi đánh giá các nhân vật lịch sử có tiến bộ hay không, nhân vật lịch sử đó phải vì dân, vì nước mà làm việc, bản thân phải là người minh bạch, trong sáng. Ở thời đại Phùng Tá Chu, ông đã vượt qua các quan lại đồng triều để đạt đến trình độ như thế, ông đã nhìn nhận, đánh giá đúng xã hội triều Lý đến độ tàn lụi, tìm và chọn đúng minh quân để phò tá, góp phần tránh cho dân tộc những cuộc tranh giành quyền lực, nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn. Như vậy, cuối triều Lý, đầu triều Trần,Phùng Tá Chu thực sự là một ông quan thanh liêm trong một xã hội mà ở đó từ vua đến các quan lại không trong sạch. Như tác giả “Nam Mặc miếu trạch bi ký” đã chép rằng: “Nhưng lạ thay, từ khi nhà Trần có miếu đền thờ tự đến giờ, không hiểu trong 668 năm ở nước Nam ta sao chỉ có tháp Yên Tử, lăng Thái Đường, miếu Tức Mặc là có danh tiếng? Khiêm tôi từng duyệt qua sách “Vạn Kiếp bí thư lục” biết Đại vương xét công việc rất minh, tấm lòng rất hậu, không những là cột đá cho thời bấy giờ, mà còn là gương sáng cho đời sau. Nếu thế thì công đức của đại vương càng thêm lớn lao?”17. Thế đó, Phùng Tá Chu không chỉ là kiến trúc sư của triều Trần, mà ông còn là kiến trúc sư được ghi nhận đầu tiên trong sử sách nước nhà. Ông thật xứng đáng được các thời đại lưu danh! Với phương pháp tư duy khoa học lịch sử và biện chứng, chúng ta tổ chức hội thảo để luận bàn làm rõ công trạng, thân thế sự nghiệp của ông, để góp phần giáo dục truyền thống tốt đẹp cho các thế hệ người Việt Nam. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh chính quyền thành phố đã đặt tên một đường phố mang tên Phùng Tá Chu tại phường An Lạc A, quận Bình Tân. Trên tinh thần đó, xin đề nghị như sau:
1 - Sau hội thảo cần xuất bản cuốn sách về thân thế sự nghiệp Phùng Tá Chu để góp phần giáo dục truyền thống tốt đẹp trong các thế hệ người Việt Nam.
2 - Đề nghị có kế hoạch nghiên cứu, có phương án để tôn tạo ngôi mộ Phùng Tá Chu tại Đồi Cao, thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội cho xứng với công đức của ông.
- Đề nghị lãnh đạo tỉnh Thái Bình và huyện Hưng Hà chỉ đạo các cơ quan chuyên môn có kế hoạch trùng tu ngôi miếu Mẽ ở làng Mỹ Xá, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đồng thời lập hồ sơ theo qui định trình cấp có thẩm quyền công nhận ngôi miếu là Di tích lịch sử văn hóa nhà nước.
3 - Đề nghị cơ quan có thẩm quyền có hình thức phù hợp để ghi lại công lao của Phùng Tá Chu tại đền Trần, vì ông là người có công đầu giúp nhà Trần xây dựng miếu Trần ở Tức Mặc, tại nơi đây xưa kia, các vua Trần đã trở thành Thái thượng hoàng, chỉ đạo, lãnh đạo từ xa bộ máy cai trị đương thời những công việc quan trọng của triều chính, bảo vệ đất nước trước họa xâm lăng, xây dựng nước Đại Việt phát triển cả về kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự.  
4- Với công lao của ngài Thái phó lưỡng triều Lý - Trần như trình bày ở trên, đề nghị tỉnh Thái Bình, tỉnh Nam Định, tỉnh Nghệ An, thành phố Hà Nội đặt tên đường phố mang tên Phùng Tá Chu. 
        
NHỮNG CHỨC VỤ CỦA PHÙNG TÁ CHU DƯỚI HAI TRIỀU LÝ - TRẦN
 
I. Dưới triều Lý Huệ Tông và Lý Chiêu Hoàng:
- Năm Tân Mùi - 1211 ĐVSL trg: 182; Đại Việt sktt, tập 1, trg 335; Đại Việt sktb, trg 308: Nội điện - trực.
- Năm Bính Tý, hiệu Kiến gia năm tứ 6 - 1216 ĐVSL trg: 204: “Vua xuống chiếu cho chức minh - tự Phùng Tá Chu làm Chiêu - thảo - sứ”.
- “Mùa đông, tháng chạp, vua cho… Phùng Tá Chu… được tước quan - nội - hầu”.
- Năm Giáp Thân, hiệu Kiến gia năm thứ 14 - 1224 ĐVSL trg: 212: “Mùa xuân năm ấy, vua lấy… Phùng Tá Chu làm nội - thị phán - thủ”.
- Thái phó triều Lý Phùng Tá Chu. Đại Việt sktt, trg 15, Đại Việt sktb, trg 327.
II. Dưới triều Trần từ năm 1226 đến năm 1241:
- Năm Bính Tuất niên hiệu Kiến trung 2, Đại Việt sử ký toàn thư tập II, trg 11, năm 1226: Được làm Phụ quốc thái phó quyền Tri phủ Nhgệ An.
- Năm Giáp Ngọ Thiên Ưng Chính Bình thứ 2, Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, trg 15 năm 1234: “Gia phong Thái phó triều Lý là Phùng Tá Chu làm Hưng Nhân Vương”, “có công trong việc mở mang lập ấp ở phủ Nghệ An”.
- Năm Giáp Ngọ thứ 3, Đại Việt sử ký toàn thư tập II:“vua gia phong tước quan nội hầu Hưng nhân vương”(?)
- Bính Thân Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 5 (1236): Gia phong Hưng Nhân Vương Phùng Tá Chu làm Đại vương. Đại Việt sktt, trg 15; Đại Việt sktb, trg 328.
- Năm Kỷ Hợi Thiên Ứng Chính Bình thứ 8, Đại Việt sử ký toàn thư tập II, trg 17; Đại Việt sktb trg 331, năm 1239: “lại cho Phùng Tá Chu làm nhập nội thái phó” sai đi xây dựng cung điện ở Tức Mặc. Năm 1240, vua sai xây dựng 5 hành cung ở Thanh Hóa. Các triều đại kế tiếp sắc tặng: Phù chính tả Đại vương. (Văn bia đình làng Quảng Bá, phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội).
 
Tài liệu tham khảo:
Trong quá trình viết bài tham luận này, tác giả đã cùng Tiến sỹ Đinh Công Vỹ, nhà văn Phùng Văn Khai điền dã đến các nơi mà trước đây Phùng Tá Chu đã phò tá hai vương triều Lý - Trần đó là: Miếu Mẽ, làng Mỹ Xá, thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Đền Trần tỉnh Nam Định; Thư viện và bảo tàng tỉnh Nghệ An, lăng mộ Phùng Tá Chu tại Đồi Cao, thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội; Đình làng Quảng Bá, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
Tác giả bài viết đã nghiên cứu các tài liệu sau đây:
- Đại Việt sử ký toàn thư, Viện KHXH Việt Nam, NXBKHXH, năm 1998.
- Đại Việt sử ký toàn thư, NXBVH - TT, năm 2000.
- Đại Việt sử ký Tiền biên, TTKHXH và nhân văn quốc gia - Viện nghiên cứu Hán Nôm, NXBKHXH, Hà Nội 1997.
- Việt sử lược, tác giả khuyết danh đời Trần thế kỷ XIV, Nhà xuất bản Văn sử địa, Hà Nội, 1960.
- Trần Miếu, Hồ Đức Thọ, NXBVHTT, năm 2010.
- Từ điển Văn hóa Việt Nam, NXBVH, năm 1993.
- Văn thần Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh, NXBVHTT, năm 2006.
- Đền Trần - chùa Tháp tỉnh Nam Định, Trịnh Thị Nga, NXBVHDT - 2008.
- Nhà Trần với Tức Mặc - Thiên Trường, Hồ Đức Thọ - Trần Huy Chiến, NXBVHTT, năm 2014.
- Chuyện tình các vua chúa hoàng tộc Việt Nam, Đinh Công Vỹ, NXBPN, năm 2009.
- 54 vị hoàng đế Việt Nam, Đặng Thủy - Đặng Thành Trung, NXBQĐND, năm 2008.
- 54 hoàng hậu Việt Nam, Đặng Thủy - Đặng Thành Trung, NXBQĐND, năm 2009.
- Thế thứ các triều vua Việt Nam, Nguyễn Khắc Thuần, NXBGD, năm 2002.
- Họ Tô Việt Nam, Ban liên lạc họ Tô Việt Nam, NXBTG, Hà Nội 2015.
- Bia ký ởĐình làng Quảng Bá, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
Trích dẫn:
-1- Việt sử lược, tác giả khuyết danh đời Trần thế kỷ XIV, nhà xuất bản văn sử địa, Hà Nội, 1960, trang 165-166.
-2- Việt sử lược, tác giả khuyết danh đời Trần thế k Đỷ XIV, nhà xuất bản văn sử địa, Hà Nội, 1960, trang 174- 175
 -3-4- Việt sử lược, tác giả khuyết danh đời Trần thế kỷ XIV, nhà xuất bản văn sử địa, Hà Nội, 1960, trang 176.
 -6- Việt sử lược, tác giả khuyết danh đời Trần thế kỷ XIV, nhà xuất bản văn sử địa, Hà Nội, 1960, trang 177.
-5-7- Đại Việt sử ký toàn thư, Viện KHXH Việt Nam, NXBKHXH, năm 1998, trang 334
8 - Nhà Trần và con người thời Trần, Viện sử học - Hội khọc lịch sử Việt Nam, Trung tâm Unesco Thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam, Hà Nội - 2004, trang 147.
9- Việt sử lược, tác giả khuyết danh đời Trần thế kỷ XIV, nhà xuất bản văn sử địa, Hà Nội, 1960, trang 213.
10- Văn hóa làng ở Thái Bình, Sở Văn, Thể thao và Du lịch Thái Bình - 2010, trang 34.
-11- Tổng tập nghìn năm văn hiến Thăng Long, tập 1, NXBVHTT - TBKTVN, trang 1249.
-12- Đại Việt sử ký toàn thư, trang 338.
-13- Việt sử lược, tác giả khuyết danh đời Trần thế kỷ XIV, nhà xuất bản văn sử địa, Hà Nội, 1960, trang 183.
-14- Tổng tập nghìn năm văn hiến Thăng Long, tập 1, NXBVHTT - TBKTVN, trang 1271 - 1272 .
-15- Đại Việt sử ký tiền biên, Trung tâm KHXHNVQP - VNCHN 1997, nhà xuất bản khoa học xã hội, trang 328.
16- GS Lê Văn Lan, Ở miền “Đất Rồng hưng thịnh”, Sự kiện và nhân chứng, nguyệt san của báo Quân đội nhân dân Việt Nam, số 269, tháng 5 - 2016, trang 26 - 27.
-17- Văn bia ghi việc ngôi miếu trên nền nhà cũ đất Nam Mặc.