(Thứ tư, 12/06/2019, 09:18 GMT+7)

    Trong hơn một năm, nghiên cứu trên 33 đình đền trên cả nước, Tiến sĩ Phùng Thảo - Phó Chủ tịch Hội đồng họ Phùng Việt Nam đã cho ra đời một bài nghiên cứu về Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng được Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đánh giá rất cao tại Hội thảo. Sau đây Ban biên tập website xin được giới thiệu bài nghiên cứu khoa học lịch sử "Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng - Anh hùng dân tộc" (Kỳ 1).
     

 
BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG PHÙNG HƯNG
- ANH HÙNG DÂN TỘC

 

Tiến sĩ PHÙNG THẢO

 

Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng là nhân vật lịch sử lớn thế kỷ thứ VIII, anh hùng dân tộc, ông được sinh ra từ nhân dân, vì nhân dân ông đã phất cờ khởi nghĩa, lãnh đạo nghĩa sĩ chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược nhà Đường và chiến thắng, giành lại độc lập, tự chủ của đất nước. Ông là “vị vua nhân hậu, quật khởi cứu dân dẹp loạn, ban đức lập công”[1].Trải từ cuối thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ XXI, đất nước đã đi qua 14 thế kỷ, gần 1.300 năm, ân đức, uy đức của Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng đã thấm sâu vào nhân dân, đời đời được tri ân ngưỡng vọng, mãi mãi không bao giờ phai mờ trong tâm trí người Việt Nam, vị vua duy nhất trong lịch sử dân tộc Việt được nhân dân tôn xưng là cha-mẹ! Thế nhưng có điều lạ:
Ngày sinh, ngày hóa, gia thế, tổ tiên, vợ con, anh em của ông như thế nào; ngày tháng năm cuộc khởi nghĩa chống xâm lược kéo dài 25 năm; cuộc kháng chiến phát triển rộng khắp các vùng miền, mang tính chất nhân dân; rồi ngày tháng năm cuộc tiến công bao vây thành Đại La (tức Tống Bình); ngày thắng lợi xưng vương, giành độc lập tự chủ của dân tộc, và những tháng năm ông cùng nhân dân tổ chức việc chính trị, xây dựng sự nghiệp tự chủ của đất nước thì sách chính sử lại chép quá sơ sài!
Điều đó có thể hiểu bởi nước ta chìm trong đêm dài bị người Tàu xâm chiếm đô hộ, như lời tựa viết trong sách Việt Nam sử lược của tác giả Trần Trọng Kim rằng: “Nước Việt ta khởi đầu có sử từ đời nhà Trần, vào quãng thế kỷ thứ XIII… cái lối làm sử của ta theo lối biên niên của Tàu, nghĩa là năm nào tháng nào có chuyện gì quan trọng thì nhà làm sử chép vào sách. Mà chép một cách rất vắn tắt cốt để ghi lấy chuyện ấy mà thôi, chứ không giải thích cái gốc ngọn và sự liên can việc ấy với việc khác là thế nào.
Nhà làm sử lại là người làm quan, vua sai coi việc chép sử, cho nên dẫu thế nào sự chép sử cũng không được tự do, thường có ý thiên vị về nhà vua, thành ra trong sử chỉ cần chép những chuyện quan hệ đến nhà vua, hơn là những chuyện quan hệ đến sự tiến hóa của nhân dân trong nước. Cả nước chỉ cốt một họ làm vua, cho nên nhà làm sử cứ theo cái chủ nghĩa ấy mà chép sử, sử đời nào cũng chỉ nói chuyện những vua đời ấy mà thôi. Bởi vậy xem sử ta thật là tẻ, mà thường không có ích lợi cho sự học vấn là mấy. Bất kỳ lớn hay nhỏ, hễ ai cắp quyển sách đi học thì chỉ học sử Tàu, chứ không học sử ta. Sử nước ta thì làm bằng chữ nho cả, mà chữ nho từ rày trở đi chắc rồi mỗi ngày một kém đi. Hiện nay số người đọc được chữ nho còn nhiều, mà trong nước còn không có mấy người biết chuyện nhà nước, huống chi mai sau này chữ nho bỏ không học nữa, thì sự khảo cứu về những việc quan hệ đến lịch sử nước mình sẽ khó biết bao nhiêu!
Từ khi nước ta thuộc về nước Tàu, chỉ có nhà Đường cai trị là nghiệt hơn cả. Nhưng sử chép lược quá “Thường hai ba năm mới chép một việc, chắc là những nhà làm sử nước ta sau cứ theo sử Tàu mà chép lại, cho nên mới sơ lược như vậy.”[2]
Từ khi nước ta có sử thì sử nước nhà (thời phong kiến) lại chép sơ lược quá, điều đó còn tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, nhãn quan chính trị, trách nhiệm, và tài năng của những ông quan được vua sai coi việc chép sử, chẳng hạn:
 “…Nước Việt ta, sử ký các đời do các tiên hiền Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên làm ra trước, Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh soạn tiếp sau. Trong đó sự tích rõ hay lược, chính trị hay hoặc dở, không điều gì không ghi chép đủ. Nhưng vì chưa khắc in, qua tay viết lại, theo nhau biên chép, không thể không có chỗ đáng ngờ…”[3].
 “…lễ bộ hữu thị lang, triều liệt đại phu kiêm Quốc tử giám tư nghiệp, kiêm sử quán tu soạn, thần Ngô Sĩ Liên nay đội ơn thánh thượng cất nhắc cho thần chức vụ ở Sử quán, thần đem hai bộ Đại Việt sử ký trước đây, tham khảo thêm các dã sử, soạn thành sách Đại Việt sử ký toàn thư, kính cẩn chép làm 15 quyển dâng tiến, Thần Ngô Sĩ Liên thật là sợ hãi, cúi đầu, rập đầu dâng lời tâu”[4].
“…Nghĩ thần học thức sơ sài, kiến văn nông mỏng, sao đủ để bàn xét việc xưa nay, mà phát huy hết nghĩa lý. Song đã lạm vâng minh chiếu, dám đâu không đáp lại để tuyên dương mệnh tốt của thánh thiên tử. Thần kính cẩn chắp tay rập đầu xin dâng bài tổng luận như sau: “…Phùng Bố Cái là người anh hào ở Đường Lâm ghét sự tàn ngược của Chính Bình, anh em thừa thời quật khởi, cứu dân dẹp loạn, ban đức lập công, có thể gọi là bậc vua nhân hậu…”[5].
“Bố Cái Vương hào phú dung lực, cũng là anh hùng một thời. Nhưng nhân khi loạn lạc, dùng kế của Đỗ Anh Hàn vây phủ Đô hộ, thái thú ốm chết, vào ở phủ trị, chưa chính vị, rồi chết, con mới truy tôn tước vương, cho nên chép nhỏ thôi”[6].
Phùng Hưng vào ở phủ trị, công bố quốc hiệu, lên ngôi vua trị nước, được dân nước Việt biết ơn, nhưng người chép sử lại quan niệm: “chưa chính vị hiệu”? phải chăng tác giả Đại Việt sử ký toàn thư cho rằng, Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng làm vua nhưng chưa được vua nước Tàu công nhận thì chưa chính vị hiệu hay sao? Hãy xem ý kiến của Giáo sư, Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn để nhận biết lịch sử nước nhà khi chưa có sử trước năm 1272: “Có sự mâu thuẫn lạ đời này, là dân tộc ta có một lịch sử lâu đời với một nền văn hóa độc đáo mà nhân dân ta từ bao đời, với bàn tay và khối óc của mình, đã tự xây dựng lấy, nhưng chỉ cách đây tám, chín trăm năm, mới có người Việt viết về lịch sử đất nước mình. Còn trước đó, trong các sách của người Tàu viết, chỉ thỉnh thoảng họ mới nói đến cái đất nước của một dân tộc “man di” gọi là Giao Chỉ, một mảnh đất hầu như hoang vu, con người còn sống sơ khai, cần phải được “Thiên triều” “giáo hóa”[7].
Như vậy, sử nước Việt ta mãi thời Trần thế kỷ XIII (1272) mới được Lê Văn Hưu viết xong, trong khi đó cuộc khởi nghĩa do Phùng Hưng lãnh đạo đã nổ ra từ trước đó, thế kỷ thứ VIII, nghĩa là hơn 5 thế kỷ trước nước ta chưa có sử, vì thế cuộc khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Đường do Phùng Hưng lãnh đạo và nhiều sự kiện quan trong khác của nước ta không có sách chính sử nào ghi chép lại đầy đủ, khách quan, khoa học. Cũng vì thế, các thế hệ sau này khi đọc sử nước ta, hiểu về sử nước ta có những việc mơ hồ là điều dễ hiểu, và cũng vì thế, chúng ta không thể hiểu đầy đủ về Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng, thân thế sự nghiệp của ông, nhân dân và thời đại ông cũng là điều đương nhiên.
Để góp phần nghiên cứu về thân thế sự nghiệp của người anh hùng dân tộc Phùng Hưng trong cuộc chiến đánh bại bọn đô hộ nhà Đường, giành lại quyền tự chủ của đất nước, trong bài viết này tác giả đã giành thời gian điền dã, đi đến 32 lăng, đình, đền, miếu, chùa ở 6 tỉnh, thành phố có thờ Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng và các mưu thần, võ tướng của ông, tại những địa chỉ này từ xa xưa nhớ ơn công đức của Phùng Hưng nhân đã dựng lăng, đình, đền, miếu, chùa thờ người anh hùng dân tộc, tập hợp, giữ gìn, bảo vệ những tư liệu quí có liên quan đến Phùng Hưng, đến cuộc khởi nghĩa lật đổ chế độ cai trị của đô hộ nhà Đường, đem lại độc lập, tự chủ đất nước mà chính sử, các triều đại phong kiến sau thời đại ông không ghi chép và lưu giữ được. Cũng tại bài viết này, tác giả tập hợp và xin trích dẫn những nội dung cơ bản bàn về cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng trong chính sử nước nhà và một số sách chép về cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng của các nhà nghiên cứu, nhà sử học để độc giả có cơ sở tìm hiểu, đối chiếu, đánh giá về cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng, góp phần vào Hội thảo rút ra kết luận khoa học về thân thế sự nghiệp của Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước cuối thế kỷ thứ VIII.
1. SáchĐại Việt sử ký toàn thư trang 191-192, NXBKHXH, năm 1998, do Ngô Sĩ Liên chép, có 450 chữ nói về cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng, Trong đó nội dung chính là:
- “Năm Tân Mùi, (791), (Đường Trinh Nguyên năm thứ 7). Mùa xuân, An Nam đô hộ phủ là Cao Chính Bình… bắt dân đóng góp nặng”.
- “Mùa hạ, tháng 4, người ở Đường Lâm thuộc Giao Châu (Đường Lâm thuộc huyện Phúc Lộc) là Phùng Hưng dấy binh vây phủ. Cao Chính Bình lo sợ mà chết”.
- Phùng Hưng vốn là nhà hào phú, có sức khỏe, có thể vật trâu, đánh hổ. Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-780) đời Đường Đại Tông, nhân Giao Châu có loạn, cùng với em là Hải hàng phục được các ấp bên cạnh, Hưng xưng là Đô Quân, Hải xưng là Đô Bảo, đánh nhau với Chính Bình lâu ngày không thắng được. Đến đây dùng kế của người làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân vây phủ. Chính Bình lo sợ phẫn uất thành bệnh ở lưng mà chết.
- Hưng nhân đó vào đóng ở phủ trị, chưa được bao lâu thì chết.
- Con là An tôn xưng làm Bố Cái Đại Vương (tục gọi cha là Bố, mẹ là Cái, cho nên lấy (Bố Cái) làm hiệu.
- Vương thường hiển linh, dân cho là thần, mới làm đền thờ ở phủ đô hộ, tuế thời cúng tế.
- Tháng 5, ngày Tân Tỵ, nhà Đường đặt quân Nhu viễn ở phủ trị. Mùa thu, tháng 7, ngày Canh Thìn, nhà Đường lấy Triệu Xương làm đô hộ. Xương vào cõi, lòng dân bèn yên. Xương sai sứ dụ An, An đem quân ra hàng.
2. Sách Việt sử lược (khuyết danh đời Trần thế kỷ XIV) chép lại về cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng có 96 chữ do cố Giáo sư Trần Quốc Vượng phiên dịch và chú giải:
- Cao Chính Bình đánh thuế rất nặng. Phùng Hưng cùng em là Phùng Hải nổi dậy ở Đường Lâm (Phúc - Thọ Sơn - Tây), dùng kế của người đồng hương là Đỗ Anh Hàn đến vây phủ thành. Cao Chính Bình lo sợ mà chết.
- Triệu Xương dụ hàng Phùng An, con Phùng Hưng, rồi làm đô hộ Giao Châu.
3.Sách Đại Việt sử ký toàn thư bản in theo ván khắc năm Chính Hòa thứ 18, tức năm 1697, còn được lưu giữ tại Thư viện của Hội Á châu ở Pari có 84 chữ: 
- “Phùng Bố Cái là người anh hào ở Đường Lâm ghét sự tàn ngược của Chính Bình, anh em thừa thời quật khởi cứu dân dẹp loạn, ban đức lập công, có thể gọi là bậc vua nhân hậu. Tiếc rằng con trai là An không nối giữ được cơ nghiệp, do Phá Cần lập nên, rồi đầu hàng Triệu Xương”.
- “Tuy có Đỗ Anh Hàn là bề tôi mưu việc nước, cũng không cứu vãn được sự bại vong của họ Phùng”.
4.Sách Đại Việt sử ký tiền biên chép lại có 782 chữ:
- “Tân Mùi 791 (Đường Trinh Nguyên năm thứ 7), mùa hạ, tháng 4, An Nam kinh lược sứ là Cao Chính Bình làm chính sự bắt dân đóng thuế nặng. Người Đường Lâm thuộc Giao Châu là Phùng Hưng khởi binh đánh lại, chiếm giữ thành.
- Phùng Hưng là nhà hào phú có sức khỏe, có thể vật trâu bắt hổ.
- Trong năm Đại Lịch nhà Đường, nhân Giao Châu có loạn, em Hưng là Hải, hàng phục được các ấp lân cận. Hưng xưng Đô Quân, Hải Xưng là Đô Bảo đánh nhau với Chính Bình rất lâu mà không thắng được. Đến khi ấy dùng kế của người làng là Đỗ Anh Hàn đem quân vây phủ, Chính Bình lo sợ phẫn uất sinh ung thư ở lưng rồi chết. Hưng vào ở phủ lỵ cho Hải làm Thái úy, chẳng bao lâu thì Hưng mất.
- Mọi người muốn lập Hải thay. Trong tướng tá của Hưng có Bồ Phá Lặc, có sức bạt núi, không chịu nghe theo. Mọi người bèn lập con Hưng là An làm Đô phủ quân. Hải lánh Bồ Phá Lặc, vào ở động Chu Nham. An đã được lập, liền tôn cha là Hưng làm Bố cái Đại Vương. (Tục gọi cha là Bố, mẹ là Cái cho nên lấy chữ “Bố Cái” làm hiệu).
- Người địa phương thấy sự linh ứng bèn lập đền thờ ở phía tây Đô phủ. Đền thờ này ở phường Thịnh Quang. Dân phường Đông Tây gọi ông là Tây Hưng Vương: Xét thấy sách Dã sử biệt lục chép: Khi Phùng Hưng đánh đô hộ phủ, có Đỗ Luân đem kỳ binh đến hội chiến, khói lửa thâu đêm, chiêng trống vang trời. Chính Bình kinh sợ mà chết.
- Tháng 5, nhà Đường đặt quận Nhu Viễn ở phủ trị. Tháng 7, lấy Triệu Xương làm đô hộ. Xương đến nơi, lòng dân mới yên. Xương sai sứ dụ Phùng An, Phùng An đem quân ra hàng”.
 
5.Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép lại có 156 chữ:
- “Năm Tân Vị 791, quan đô hộ là Cao Chính Bình bắt dân đóng sưu thuế nặng quá, lòng người oán giận. Khi bấy giờ ở quận Đường Lâm (bây giờ là làng Cam Lâm, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây) có người tên là Phùng Hưng nổi lên đem quân về phá phủ đô hộ. Cao Chính Bình lo sợ mà chết. Phùng Hưng mới chiếm giữ phủ thành, được mấy tháng thì mất”.
- Quân sĩ lập con Phùng Hưng là Phùng An lên nối nghiệp. Dân ái mộ Phùng Hưng mới lập đền thờ và tôn tên là Bố Cái Đại Vương, bởi vì ta gọi cha là Bố, mẹ là Cái, nghĩa là tôn Phùng Hưng lên làm cha mẹ.
- Tháng 7 năm Tân vị ấy, vua nhà Đường sai Triệu Xương sang làm Đô hộ. Phùng An liệu thế chống không nổi xin ra hàng”.
6.Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Kế Bính chép có 27 chữ
- “…Phùng Hưng, người Đường Lâm, giữ thành xưng vương. Tuy họ chưa lập được nước, nhưng biết thừa thời trỗi dậy, đều đáng khen là hào kiệt” 
7.Sách Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX của Đào Duy Anh, có 388 chữ:
- “Phùng Hưng là một hào trưởng ở làng Đường Lâm thuộc Phong Châu (xã Cam Lâm, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây). Khoảng năm 767, nhân khi giặc Chà Và hoành hành, Phùng Hưng đã cùng em là Phùng Hải đem đảng chúng uy phục các ấp lân cận để tổ chức cuộc phòng thủ ở địa phương, Hưng xưng Đô Quân, Hải xưng là Đô Bảo”.
- Khi thấy Đô hộ Cao Chính Bình bóc lột nhân dân thái quá, Phùng Hưng tiến quân đánh phủ thành, nhưng đánh mãi không được. Sau Phùng Hưng theo kế của người làng là Đỗ Anh Hàn, cứ bao vây phủ thành. Cao Chính Bình chờ viện binh không có, lo sợ mà chết.
- Phùng Hưng chiếm được phủ thành, tổ chức việc chính trị, xây dựng sự nghiệp tự chủ. Bấy giờ là năm 791. Được ít lâu sau Phùng Hưng chết. Quân dân yêu mến Phùng Hưng nên truy tôn là Bố Cái Đại Vương.
- Nhà Đường cử Triệu Xương làm Đô hộ tiến quân phản công. Phùng An liệu thế không chống nổi đã đầu hàng”.
8.Sách Truyện đọc lịch sử Việt Nam tập 2 của Đinh Xuân lâm. 
- “Tổ tiên họ Phùng đời đời làm quan lang ở châu Đường Lâm (nay là thị xã Sơn Tây, Hà Nội). Khoảng năm 767, anh em Phùng Hưng nổi dậy đánh chiếm Đường Lâm, rồi tiến đánh chiếm được một vùng rộng lớn thuộc Phong Châu (Phú Thọ) xây dựng thành căn cứ chống giặc.
- Năm 782, Phùng Hưng được tôn lên làm vua tổ chức lại đất nước, mở mang kinh tế. Năm 789 ông mất, nhân dân tôn ông làm Bố Cái Đại Vương.
- Cuối 791, Phùng An dẫn các thuộc hạ ra hàng Triệu Xương, nền tự chủ của nước nhà vừa mới được xây dựng lại bị tan vỡ.
9. Sách Giản yếu sử Việt Nam của Đặng  Duy Phúc có 567 chữ.
- “Năm 766, lợi dụng người Côn-Lôn và người Chà-Và đem quân đánh nhà Đường ở phía Nam và lúc quân lính ở Tống Bình nổi dậy chống Trương Bá Nghi, Phùng Hưng phát động nhân dân đứng lên khởi nghĩa, làm chủ cả một vùng rộng lớn. Đô tổng quản An Nam Đô hộ nhà Đường Trương Bá Nghi và về sau là Cao Chính Bình nhiều lần đem quân đàn áp nhưng không sao đè bẹp nổi.
Năm 782, Phùng Hưng nghe lời khuyên của Đỗ Anh Hàn... đưa quân tiến đánh La Thành (bấy giờ thành Tống Bình đã được đổi tên là La Thành)... giải phóng La Thành.
- Ông vào thành, chính thức lên ngôi vua, tuyên bố xóa bỏ ách đô hộ của nhà Đường, tổ chức lại việc cai trị, miễn giảm thuế khóa lao dịch, thực thi nhiều chính sách thương dân, mong xây dựng quyền tự chủ lâu dài. Nhân dân kính yêu ông, suy tôn ông làm Bố Cái Đại Vương, coi ông như cha mẹ.
- Vua nhà Đường là Đức Tông Lý Quát nghe tin An Nam thất thủ nhưng bấy giờ ở Trung Quốc đang có loạn phiên trấn đánh chiếm kinh đô, Lý Quát bị đuổi chạy khỏi Tràng An nên không còn lòng dạ nào để tính chuyện ở phương Nam. Nhờ thế Phùng Hưng yên ổn làm vua được 7 năm, đến năm 789 mất.
- Phùng An lên ngôi được 2 năm thì cũng là lúc nhà Đường khôi phục được Tràng An, Đức Tông nhà Đường bèn phong Triệu Xương làm An Nam Đô hộ, sai dẫn quân sang đánh.
- Năm 791, An ra hàng nhà Đường, làm mất nghiệp lớn của người cha anh hùng.
10. Sách Danh nhân quân sự Việt Nam.
- Phùng Hưng, người phát động và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ nhà Đường năm 766-779.
- Ông xuất thân từ dòng dõi cự tộc, hào trưởng đất Đường Lâm, Ba Vì, Hà Tây. Bố Phùng Hưng - một người hiền tài, đức độ, đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan… Những năm mất mùa, nhân dân gặp đói kém, họ Phùng thường đem thóc lúa chẩn cấp người nghèo, nên được nhân dân trọng nể.
- Dưới sự lãnh đạo của Phùng Hưng, cuộc đấu tranh của nhân dân chống ách đô hộ nhà Đường mặc dầu trải qua nhiều thử thách cam go, khi phòng thủ bảo vệ căn cứ, khi tiến quân công thành ác liệt, nhưng cuối cùng khởi nghĩa đã giành thắng lợi, Phùng Hưng xây nền tự chủ đất nước được 7 năm thì mất. Rất tiếc không có sử sách ghi chép những công việc Phùng Hưng thực hiện trong 7 năm.
- Con là Phùng An nối nghiệp tôn xưng làm Bố Cái Đại Vương (tục gọi cha là Bố, mẹ là Cái, cho nên lấy Bố Cái làm hiệu). Phùng An nối nghiệp Bố Cái Đại Vương được 2 năm, vua Đường cử Triệu Xương đưa quân sang đàn áp. Nền tự chủ mới được xây dựng trên dưới 9 năm lại bị tan vỡ.
Trong bài viết này, người viết đã rút ra một số kết luận:
- Phùng Hưng đã động viên nhân dân cùng nghĩa quân chung sức đánh đổ ách thống trị của nhà Đường;
- Phùng Hưng đã rèn luyện binh sĩ, xây dựng đội ngũ chỉ huy tài năng: Vị quân sư tài năng Đỗ Anh Hàn, các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, A Gia, Đầu mục quân Bồ Phá Lặc (Cần), Triệu An, Lăng Bình,  Đỗ Nhung, Triệu Cử, Hà Toại, Lục Kiều, Thành Yển… Theo thần tích làng Hòa Mục Hà Nội, có hai người cháu ngoại của Phùng Hưng vào chiến trận chỉ huy đánh giặc đã nổi danh thành những tướng tài ba.
- Phùng Hưng có cách đánh giặc tài giỏi: Ông chia quân thành 5 mũi - Phùng Hải dẫn quân tiến công phía Bắc thành; Phùng Dĩnh phía Nam, Bồ Phá Cần đánh phía Đông, Đỗ Anh Hàn đánh phía Tây, Phùng Hưng đích thân thống lĩnh Trung quân.
- Phùng Hưng là vị anh hùng dân tộc. Nhân dân luôn nhớ về ông. Ngô Quyền lập đền thờ ông rất lớn.
 
 
 

DANH SÁCH CÁC MƯU THẦN, TƯỚNG LĨNH THAM GIA CUỘC KHÁNG CHIẾN LÂU DÀI DO  PHÙNG HƯNG LÃNH ĐẠO

 
Qua nghiên cứu, tìm hiểu các đình Triều Khúc, đình Quảng Bá, đình Chuông, đình Cù Tu, đình Phú Chử, Miếu Đoài, đình Đồng Tử, đình Hòa Mục, đền Dục Anh, đình Giáp Nhất, đình Kim Mã, chùa Chuông, hiện nay nhân dân ở các làng, xã và các vùng lân cận đang thờ Phùng Hưng và các vị mưu thần, tướng lĩnh của ông, nghiên cứu tài liệu có liên quan hiện có như: Sự tích Đại đô Thành hoàng Phùng Đại Vương (Bộ Lễ triều Lý), Việt Điện u linh tập Phùng Bố cái Đại vương truyện, sách Danh nhân quân sự Việt Nam (Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam), sách Nhân vật lịch sử Hải Phòng (Nhà xuất bản Hải Phòng), sách Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (tác giả Lê Thái Dũng, NXBDT) tác giả thống kê các vị mưu thần, tướng lĩnh của Bố cái Đại Vương Phùng Hưng trong cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống ách đô hộ của nhà Đường thế kỷ thứ VIII. Chắc chắn còn nhiều anh hào khác do thời gian thời đại các vị cách chúng ta quá xa, nguồn sử liệu khó tìm, rất tiếc tên tuổi các vị đã bị thất truyền, nhưng công lao đóng góp của các vị với đất nước với nhân dân sẽ sống mãi với non sông, đất nước và dân tộc Việt Nam.

  • Phùng Hải
  • Phùng Dĩnh
  • Đỗ Anh Hàn
  • Bồ Phá cần
  • Đỗ Anh Luân
  • Đỗ Anh Nho
  • Phùng Lã Tu
  • Thiếu Kiện
  • Lỗ Túc
  • Đỗ Huệ
  • Phạm Huy
  • Phạm Miện
  • Phùng Luông
  • Bốc Chiêm
  • Trương Nữu
  • Phùng Thị Trinh
  • Trương Phán
  • Trương Dị
  • Trương Thanh
  • Thiệu An
  • Chư Viên
  • Lăng Bình
  • Đỗ Nhưng
  • A Gia
  • Hà Toại
  • Lưu Kiều
  • Thành Yến                                                                        
  • 28-PhùngQuang                                                                                   29-   Lâu Tiếp

30-   Địch Hào                                                                        
31-   Tổng Tác
32-   Bội Thiện                                                      
33-   Điền Khương                               
34-   Công
35-   Triệu Cử
36-   Lục Thành
37-   Lâm Tiết
38-   Lục Hàn
39-   Quận An
40-   Lăng Bình
41-   Đoàn Viêm
42-   Hoài Nghĩa                            
43-   Triệu Phàn
44-   Nguyên Khách
45-   Tống Mục                              
46-   Khước Đan                          
47-   Trường Hoằng                            
48-   Vệ Quân
49-   Tỳ Chung 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 


[1]Đại Việt sử ký toàn thư, NXBVH, năm 2000, tr.153-154
[2]Việt Nam sử lược, NXBVH, năm 2001, tr.7-8 và tr.76
[3]Đại Việt sử ký toàn thư, NXBKHXH, tập 1, năm 1998, tr.93
[4]Đại Việt sử ký toàn thư, NXBKHXH, tập 1, năm 1998, tr.101
[5]Đại Việt sử ký toàn thư, NXBKHXH, tập 1, năm 1998, tr.118-120
[6]Đại Việt sử ký toàn thư, NXBKHXH, tập 1, năm 1998, tr.54
[7]Đại Việt sử ký toàn thư, NXBKHXH, tập 1, năm 1998, tr.9-10