(Thứ ba, 18/11/2025, 10:16 GMT+7)
Khi nói về văn học Việt Nam 50 năm sau 1975, trong tôi luôn thầm tri ân, bởi chúng tôi được thừa hưởng một nền văn học phong phú, với những tên tuổi đã lẫy lừng của văn chương Việt Nam như Lê Lựu, Lê Minh Khuê, Chu Lai, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Thiều, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Ngọc Tư... cùng các nhà thơ Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương, Nguyễn Trọng Tạo, Trần Anh Thái, Nguyễn Hữu Quý... thật thiếu sót khi tôi không thể liệt kê được đầy đủ các nhà văn, nhà thơ tên tuổi, tôi cũng luôn băn khoăn rằng, thế hệ trẻ hôm nay đang nối dài con đường ấy bằng cách nào, liệu chúng tôi có đủ nội lực để làm mới tinh thần văn chương nước nhà sau nửa thế kỷ phát triển hay không.
 
Nhà thơ Phùng Thị Hương Ly
 
Tôi, thế hệ 9X sinh ra ở miền núi phía Bắc. Mẹ tôi kể rằng, thời bà còn trẻ, một cuốn sách có thể được đọc đi đọc lại nhiều lần, mẹ tôi từng chép tay những đoạn văn mình yêu thích vào cuốn sổ tay và truyền cho người thân cùng đọc. Tên của tôi được đặt là tên của một nhân vật trong tác phẩm văn chương mà mẹ tôi rất thích. Còn cá nhân tôi, biết đến văn chương qua sách giáo khoa, Đài Tiếng nói Việt Nam. Từ năm 2007, tôi đã biết đến trang phongdiep.net, tôi tranh thủ chút ít thời gian của buổi trưa để ra quán nét nghiền ngẫm đọc thơ và các thông tin, hoạt động của văn học nước nhà. Tôi và văn chương đã tìm đến nhau như thế. Càng gắn bó, tôi càng hiểu rằng, để viết không chỉ cần say mê mà còn cần bản lĩnh để không bị trùng lặp, để vượt qua cái bóng của những người đi trước và tự tìm cho mình một giọng nói riêng.
 
Tôi là người Tày luôn đau đáu khi viết đề tài miền núi, nhìn lại chặng đường văn học dân tộc thiểu số hôm nay, tôi nhận ra những người viết cùng thế hệ đang ở ngã rẽ của nhiều đổi thay. Cái bóng của những cây bút lớn như Ma Văn Kháng, Y Phương, Cao Duy Sơn, Dương Thuấn, Pờ Sảo Mìn, Inrasara... họ vừa là niềm tự hào vừa là thử thách không nhỏ đối với những người viết trẻ như tôi trong hành trình “tự phát lối cho mình”- trích câu thơ của nhà thơ Dương Thuấn). Có lẽ vì vậy mà những người viết trẻ đang đối mặt với những điểm nghẽn rất cần được tháo gỡ. Trước hết điều nhận thấy rõ nét nhất là về đề tài. Nhiều người viết trẻ vẫn chọn viết về rừng, bản, lễ hội, màu chàm, nhà sàn, con suối, câu Then... những hình ảnh ấy rất đẹp nhưng dễ lặp lại và sa vào khuôn mẫu. Trong khi đó, đời sống miền núi hôm nay đã khác xưa rất nhiều (thực tế thanh niên rời bản đi làm, phương thức canh tác thay đổi, văn hóa giao thoa, trẻ em ít được dạy tiếng mẹ đẻ). Nếu không viết về những chuyển động đó, văn học dân tộc sẽ tự khiến mình chậm nhịp với thời đại.
 
Tiếp theo là nghẽn về không gian tiếp cận. Phần lớn người viết dân tộc thiểu số vẫn đang sáng tác trong sự đơn độc. Họ ít cơ hội xuất bản, ít được tham gia các diễn đàn học thuật và gần như thiếu môi trường phản biện. Có những tác phẩm rất hay, nhưng ít người biết đến. Bởi vậy, tôi cho rằng cần có những chính sách xuất bản, giải thưởng, dịch thuật và truyền thông chuyên biệt, để đưa tác phẩm của người viết dân tộc đến với độc giả rộng hơn trong và ngoài nước.
 
Và nữa là nghẽn về cách viết, nhiều người trẻ vẫn bị ám ảnh rằng “phải dân tộc” nên ngôn ngữ đôi khi gò bó, thiếu hơi thở đương đại. Nhưng tôi tin, văn học dân tộc không nhất thiết phải viết bằng chất liệu dân tộc, mà quan trọng hơn là phải viết bằng tâm thế dân tộc. Giữ hồn cốt văn hóa của mình, dám thử nghiệm ngôn ngữ, giọng kể, cấu trúc mới để hòa mình vào dòng chảy của văn chương đương thời. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở ba điểm nghẽn ấy thì chưa đủ. Bởi sâu xa hơn văn học trẻ hôm nay còn đối diện với một nguy cơ khác đó là sự ngộ nhận.
 
Bên cạnh những nỗ lực tìm tòi và đổi mới, không thể phủ nhận đang tồn tại một hiện tượng đáng lo ngại, nhiều người viết dễ rơi vào ảo tưởng về giá trị sáng tạo của bản thân. Họ dễ bằng lòng với những lời khen, số lượt chia sẻ trên mạng xã hội hay những lời tung hô lẫn nhau. Những sự động viên ấy, nếu không đi cùng phản biện sẽ vô tình tạo nên ảo giác về “thành công”, khiến người viết không còn giữ được sự tỉnh táo để nhìn nhận và rèn giũa ngòi bút của mình. Vô hình trung, sự dễ dãi đó khiến giá trị văn chương bị bào mòn. Khi mọi bài viết đều được khen là đặc sắc, khi mọi cảm xúc đều được xem là chân thật, thì chuẩn mực của cái hay, cái đẹp, sự sâu sắc dần trở nên mờ nhạt. Văn chương vốn cần lao động nghiêm túc và trung thực, nhưng đôi khi lại bị cuốn vào không khí ồn ào của những lời tán dương. Khi tôi chia sẻ những điều chân thành này, là tôi cũng đã tự soi chiếu vào bản thân mình và nhận ra đã có lúc mình từng bị “ảo tưởng” như thế...
 
Từ những trăn trở ấy, tôi xin chia sẻ một vài suy nghĩ nhỏ. Trước hết, nhà nước các Hội văn học nghệ thuật cần mở rộng không gian học thuật và giao lưu cho người viết trẻ dân tộc thiểu số. Những trại sáng tác, nhóm nghiên cứu hay hội thảo nên được tổ chức thường xuyên, ở trung ương và địa phương để tiếng nói của những cây bút miền núi được nuôi dưỡng, lan tỏa bền vững hơn. Đồng thời, cần khuyến khích người viết trẻ tìm đến những đề tài mới, phản ánh đời sống đang chuyển mình. Chẳng hạn viết về công nhân người miền núi mưu sinh ở chốn thị thành, giáo viên vùng cao, công chức cấp xã, trưởng thôn, những người trồng rừng… Điều quan trọng hơn cả, chúng ta cần một hệ tiêu chí thẩm định nghiêm túc, khách quan. Văn học dân tộc thiểu số không nên được ưu ái chỉ vì là “dân tộc” mà cần được đánh giá công bằng bằng chất lượng nghệ thuật. Một nền văn học chỉ thật sự phát triển khi người viết được nói thật, được đọc và được phản biện thật. tôi tin rằng thế hệ hôm nay cần dám đi tiếp, dám bước qua cái bóng lớn để tìm giọng nói của thời mình.
 
50 năm văn học Việt Nam một dòng chảy đáng tự hào. Trong dòng chảy ấy, tôi hạnh phúc khi được góp một phần nhỏ bé bằng giọng thơ trẻ của miền núi, bằng tình yêu chân thành với quê hương, con người và chữ nghĩa. Xin trân trọng cảm ơn Hội Nhà văn Việt Nam đã tạo nên không gian quý giá này, để chúng tôi những người viết trẻ được nói, được nghe, được sẻ chia và được tiếp thêm niềm tin cho con đường cầm bút phía trước.
 
PHÙNG THỊ HƯƠNG LY
 
Tham luận tại Hội thảo “50 năm văn học Việt Nam từ sau 1975: Góc nhìn của những người viết trẻ”