(Thứ bảy, 21/09/2019, 04:49 GMT+7)

Chương 1

TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ PHÙNG VƯƠNG

TRONG TIẾN TRÌNH TIỂU THUYẾT

LỊCH SỬ VIỆT NAM

 

Thật khó để đưa ra một khái niệm hoàn hảo và chính xác về thể loại tiểu thuyết. Bởi lẽ như quan điểm của Bakhtin, nhà bác học Nga lỗi lạc: “Tiểu thuyết là thể loại duy nhất đang biến chuyển và chưa được định hình… Nòng cốt của thể loại tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta chưa đoán được khả năng uyển chuyển của nó” [2, tr.340]. Đồng quan điểm này, nhà văn Carpeudour viết: “Tiểu thuyết tạo nên một vùng tiếp xúc tối đa với hiện tại trong một dạng dang dở chưa hoàn chỉnh. Tiểu thuyết là một dạng duy nhất đang hình thành và còn chưa có sẵn. Các lực lượng tạo thành thế lực ấy đang hoạt động trước mắt chúng ta. Sự nảy sinh và tiểu thuyết đang phát sinh dưới ánh sáng của lịch sử. Bộ xương còn chưa cứng cáp và chúng ta chưa có thể quyết định đúng hết mọi khả năng tạo dựng của nó” [22]. Do đó, đi tìm khái niệm tiểu thuyết là một con đường mở đi nhiều hướng cho các nhà nghiên cứu. Định nghĩa về tiểu thuyết hiện nay vẫn mang tính khái quát và mở, bởi lẽ tiểu thuyết vẫn đang trên đà xê dịch và biến chuyển theo dòng thời gian của thời đại.
Trước đây, theo Từ điển bách khoa toàn thư World Book, xuất bản năm 1999, ở Mỹ: “Tiểu thuyết là truyện hư cấu được viết bằng văn xuôi” và có bốn đặc điểm chính. Một là, tiểu thuyết là một chuyện kể, nghĩa là một câu chuyện được trình bày bằng một người kể chuyện. Hai là, tiểu thuyết dài hơn các truyện ngắn, các truyện thần tiên (Fairy taler) và hầu hết các truyện khác. Độ dài của tiểu thuyết thay đổi lớn, nhưng hầu hết đều quá 60.000 từ. Ba là, tiểu thuyết được viết bằng văn xuôi thay vì bằng thơ. Đặc điểm này phân biệt với thơ kể chuyện dài. Bốn là, tiểu thuyết là tác phẩm hư cấu. [18, mục Novel].
Theo những tài liệu lí luận và nghiên cứu văn học ở Việt Nam, rất nhiều định nghĩa về tiểu thuyết được công bố mang tính chất mô phạm cao. Trong Từ điển văn học, bộ mới (Nguyễn Huệ Chi, Đỗ Đức Hiểu chủ biên) định nghĩa: “Tiểu thuyết là thể loại tác phẩm tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào số phận cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó, sự trần thuật ở đây được khai triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt “cơ cấu” của nhân cách” [3, tr.1716]. Trong Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, “tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh cuộc sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng.” [6, tr.128]. Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, do Lại Nguyên Ân chủ biên, định nghĩa: “Tiểu thuyết là thể loại văn xuôi có hư cấu, thông qua nhân vật, hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và những vấn đề của cuộc sống con người, biểu hiện tính chất tường thuật, tính chất kể chuyện bằng ngôn ngữ văn xuôi theo những chủ thể xác định” [1, tr.385]. Quan điểm trong Lý luận văn học các nhà nghiên cứu cho rằng đó là: “một thể loại lớn nằm trong phương thức tự sự, có khả năng phản ánh hiện thực đời sống một cách bao quát ở mọi giới hạn không gian và thời gian, khả năng khám phá một cách sâu sắc những vấn đề thuộc về thân phận và con người thông qua những tính cách đa dạng, phức tạp và khả năng tái hiện bức tranh mang tính tổng thể rộng lớn về đời sống xã hội” [8, tr226]. Như vậy, tiểu thuyết được định nghĩa rất đa dạng. Và thông qua một số định nghĩa này, chúng ta có thể đi tìm những đặc trưng, bản chất của tiểu thuyết.
Thứ nhất, tiểu thuyết mang đặc trưng phản ánh hiện thực cuộc sống và con người sâu sắc. Đối tượng của tiểu thuyết là cuộc sống ở mọi khía cạnh, ở mọi không gian và thời gian. Như Xtăngđan nhận định: “Tiểu thuyết là tấm gương xê dịch trên con đường dài… Tiểu thuyết như tấm gương đi dạo giữa đường cái lớn. Nó phản ánh khi thì màu xanh thẳm của bầu trời, khi thì chất bùn nhơ của những vũng lầy trên đường cái” [2,tr. 345]. Bên cạnh đó, nhà văn cho rằng: “Tiểu thuyết là sử thi của đời tư”, tiểu thuyết hình thành khi “vận mệnh con người, mọi mối liên hệ của nó với đời sống nhân dân được ý thức”, “đời sống cá nhân bất luận như thế nào cũng không thể là nội dung anh hùng ca Hy Lạp, nhưng lại có thể là nội dung của tiểu thuyết.” [2, tr.321]. Trong tiểu thuyết, chúng ta không thấy giới hạn của không gian ở đâu, thời gian là khi nào, tất cả mọi ngóc ngách của cuộc sống đều được thể hiện sáng tạo, rộng mở. Như nhà văn Nguyễn Mộng Giác định nghĩa về tiểu thuyết qua bài viết Thảo luận về tiểu thuyết lịch sử trên Tạp chí Văn học số 197: “là một thể loại văn chương nhằm thỏa mãn nhu cầu muốn ngóng chuyện thiên hạ của đời người. Người viết tiểu thuyết là người kể. Người đọc tiểu thuyết là người muốn nghe kể. Người kể chuyện phải kể như thế nào để người nghe hiểu được câu chuyện của mình, nghĩa là hai bên phải nói cùng ngôn ngữ, dùng cùng một tần số cho tín hiệu phát và thu, có chung một trục quy chiếu của lý luận và phương cách diễn đạt” [19]. Có nghĩa là, với nhà văn, thể hiện cách nhìn đối với cuộc sống, con người là điều quan trọng nhất, hiện thực cuộc sống càng đa dạng, nhiều chiều càng thể hiện sự thành công của tác giả. Và chỉ có thể loại tiểu thuyết, với sự không giới hạn về dung lượng, về chi tiết, cốt truyện, nhân vật… trong tác phẩm mới khiến nhà văn bay bổng trong tác phẩm văn học của mình.
Thứ hai, tiểu thuyết tạo nên tính đa dạng về thẩm mỹ sâu sắc. Bởi lẽ, “tiểu thuyết có năng lực phản ánh hiện thực một cách bao quát và sinh động theo hướng tiếp cận trên cả bề rộng lẫn bề sâu” [9, tr.229] nên giá trị thẩm mỹ của tiểu thuyết là sự khắc họa chân thực buồn - vui của con người, tốt - xấu của xã hội.
Thứ ba, trong tiểu thuyết tồn tại tính hư cấu nghệ thuật. Chính tính hư cấu đã góp phần tạo nên thành công của tiểu thuyết, góp phần tái hiện chân dung của cuộc sống, con người tiểu thuyết.
Thứ tư, trong tiểu thuyết luôn có tính truyện, tính trần thuật và tính tự sự. Khác với truyện ngắn, tiểu thuyết cho phép tác giả vận dụng một số lượng lớn các chi tiết để tái hiện câu chuyện cụ thể, sinh động. Tiểu thuyết hiện đại không giới hạn điểm nhìn trần thuật của tác phẩm, câu chuyện của nhà văn có thể linh hoạt từ điểm nhìn trần thuật này sang điểm nhìn trần thuật khác, ngôn ngữ trần thuật khác.
Thứ năm, tiểu thuyết mang bản chất tổng hợp. Trong cuốn Lý luận văn học (Đoàn Đức Phương chủ biên) có viết: “Tiểu thuyết là thể loại sinh sau đẻ muộn. Vì vậy, nó tiếp thu cái tốt đẹp của các thể loại đã có (anh hùng ca, thơ, kịch…), sáng tạo thêm những yếu tố mới… Như một đứa con lai, nó đẹp, nó khỏe, nó đầy sức sống” [9, tr.227]. Như vậy, trong tiểu thuyết chúng ta có thể bắt gặp những yếu tố của ca, kịch, điện ảnh, sân khấu…, không hề bị gò bó vào một khuôn mẫu nhất định như các thể loại khác. Nhà văn có thể thỏa sức sáng tạo, bay bổng ngòi bút tài hoa, trí tuệ của mình với thể loại tiểu thuyết.
Có rất nhiều cách phân loại tiểu thuyết. Xét về khuynh hướng sáng tác thì có tiểu thuyết cổ điển, tiểu thuyết hiện thực, tiểu thuyết lãng mạn… Xét về đề tài sáng tác thì có tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết thế sự đời tư, tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết khoa học viễn tưởng… Phạm Quỳnh khi bàn về tiểu thuyết thì phân loại thành tiểu thuyết ngôn tình, tiểu thuyết tả thực và tiểu thuyết truyền kì. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan chia tiểu thuyết thành các tiểu loại: tiểu thuyết phong tục, tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết luân lí, tiểu thuyết truyền kì, tiểu thuyết phóng sự… Có thể khẳng định rằng, việc phân loại cũng như định nghĩa về khái niệm tiểu thuyết để tuyệt đối chính xác là điều rất khó khăn. Mọi định nghĩa, cách phân loại đều mang tính tương đối chỉ vì nó là thể loại đang vận động.
Định nghĩa về tiểu thuyết lịch sử rất đa dạng. Nói một cách khái quát “tiểu thuyết lịch sử (historical novel) là một khái niệm kép chỉ một tác phẩm văn học viết lịch sử bằng tiểu thuyết” [48]. Theo G.Lucas - nhà tiểu thuyết lịch sử người Hunggari: “Tiểu thuyết lịch sử về nguyên tắc không khác gì tiểu thuyết thông thường nhưng phải thể hiện được sự vĩ đại của con người lịch sử với những khả năng của tiểu thuyết nói chung” [20]. Đồng quan điểm này là quan niệm của Bùi Văn Lợi trong luận văn tiến sĩ Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thế kỉ XX đến 1945 tiểu thuyết lịch sử là “những tác phẩm mang trọn đặc trưng của thể loại tiểu thuyết nhưng lại lấy nội dung lịch sử làm đề tài, là cảm hứng sáng tạo nghệ thuật” [27, tr.23]. Có thể nói rằng, về thể loại, tiểu thuyết lịch sử tuân thủ đầy đủ những quy tắc của tiểu thuyết.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên), khái niệm tiểu thuyết lịch sử được xác định đầy đủ hơn: đó là “các tác phẩm viết về đề tài lịch sử”, “có chứa các nhân vật và chi tiết hư cấu, tuy nhiên nhân vật chính và sự kiện chính thì được sáng tạo trên các sử liệu xác thực trong lịch sử, tôn trọng lời ăn tiếng nói, phong tục, tập quán phù hợp với các giai đoạn lịch sử ấy”. “Tác phẩm lịch sử thường mượn chuyện xưa nói chuyện đời nay, hấp thụ những bài học của quá khứ, bày tỏ sự đồng cảm với những con người và thời đại đã qua, song không vì thế mà hiện đại hóa người xưa, phá vỡ tính chân thật lịch sử của thể loại này…” [6, tr.336].
Trong Từ điển văn học bộ mới, “tiểu thuyết lịch sử là tác phẩm tự sự hư cấu lấy đề tài lịch sử làm nội dung chính. Lịch sử trong ý nghĩa khái quát là sự phát triển của tự nhiên và xã hội. Các khoa học xã hội (cũng được gọi là khoa học lịch sử) đều nghiên cứu quá khứ của loài người trong tính cụ thể và đa dạng của nó. Tuy vậy, những tiêu điểm chú ý của các sử gia lẫn các nhà văn quan tâm đến đề tài lịch sử, thường đều là sự hình thành, hưng thịnh và diệt vong của các nhà nước, những biến cố lớn trong đời sống xã hội của cộng đồng quốc gia, trong quan hệ giữa các quốc gia như: chiến tranh, cách mạng… cuộc sống và sự nghiệp của các nhân vật có ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử” [3, tr.1725].
Nam Dao trong bài Thảo luận Về tiểu thuyết lịch sử thì cho rằng: “Tiểu thuyết lịch sử mang khả năng phê phán hiện tại qua cách đảo ngược và xoay ngang những biến cố, cũng như tính chất con người trong quá khứ. Tiểu thuyết lịch sử trong giai đoạn này, không trốn chạy. Lẩn vào quá khứ để chiếm hữu và tái tạo lịch sử. Tiểu thuyết là sự dấn thân của nhà văn nhằm phục sinh một hiện tại cần tháo gỡ hầu thoát khỏi những bế tắc tiêu vong. Vì thế, tiểu thuyết lịch sử hóa ra một tập hợp dự phóng về một tương lai có thể có được” [19].
Quan điểm của Bình Nguyên trong bài báo Vấn đề hư cấu và giải thiêng trong tiểu thuyết lịch sử đăng trên báo điện tử Văn nghệ quân đội cho rằng: “Tiểu thuyết lịch sử, tự bản thân tên gọi của nó đã thể hiện rõ đặc trưng thể loại, phản ánh tính chất kép: pha trộn giữa những sáng tạo, hư cấu vốn là đặc tính cố hữu của tiểu thuyết với những sử liệu, một thứ kí ức đã được ghi chép lại của nhân loại” [45]. Tức là tiểu thuyết lịch sử mặc dù thể hiện những sự kiện và nhân vật lịch sử được nhân loại thừa nhận, thì nó còn là một tác phẩm văn học có sử dụng yếu tố hư cấu sâu sắc.
Với nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, khi trả lời bài phóng sự Viết tiểu thuyết lịch sử cũng cần phải hư cấu, nhà văn đã giải nghĩa tiểu thuyết lịch sử bằng phương thức sáng tạo nên nó. Đó là: “Có nhiều cách viết tiểu thuyết lịch sử. Tiểu thuyết hoàn toàn gồm các nhân vật lịch sử; Tiểu thuyết gồm các nhân vật lịch sử trộn lẫn với những nhân vật hoàn toàn hư cấu; Tiểu thuyết gồm những nhân vật hoàn toàn hư cấu nằm trong một bối cảnh lịch sử nhất định. Nhưng theo tôi dù ở loại nào tựu chung với người viết có hai vấn đề. Thứ nhất, về mặt tư liệu: cần nắm vững tư liệu liên quan đến thời kì mình viết, từ chính trị, kinh tế, xã hội đến văn học, văn hóa, triết học… Tư liệu càng phong phú thì người viết càng dễ đắm mình vào vấn đề và không khí của thời đại ấy. Thứ hai: về hư cấu: Đã gọi là tiểu thuyết thì phải hư cấu. Khi hư cấu, người viết vận dụng toàn bộ văn hóa, tinh thần, toàn bộ kinh nghiệm sống của mình. Đó là sự tổng hợp, hòa trộn nhuần nhuyễn giữa thực và hư, giữa lịch sử và hiện tại, giữa tri thức và cảm thức” [58]. Có nghĩa là, nhà văn định nghĩa tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm có nhân vật hoặc bối cảnh lịch sử có thật, đan xen các yếu tố hư cấu trong tác phẩm. Chính “hư cấu” trong tiểu thuyết lịch sử mới tạo nên mối quan hệ giữa con người hiện tại - con người quá khứ, để lí giải lịch sử theo đôi mắt, cách nhìn của người thời nay.
Đồng quan điểm với nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, nhà văn Hoàng Quốc Hải cũng cho rằng: “Tiểu thuyết nói chung kể cả tiểu thuyết lịch sử đều phải lấy hư cấu làm phương tiện nghệ thuật. Vấn đề là phải hư cấu như thế nào để đạt đến chân thực lịch sử và chân thực cuộc sống. Chân thực tới mức người đọc phải thừa nhận đây mới là chân thực lịch sử. Cũng không có nghĩa là sự bịa tạc, mà là sự tìm tòi đi đến chân thực. Và sự thật lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử đáng tin cậy hơn, vì nó giải mã cuộc sống” [58]. Với quan điểm này, nhà văn phải có trách nhiệm đối với ngòi bút của mình, phải làm sao để “hư cấu” trong tác phẩm phải tái hiện được “chân thực cuộc sống”.
Như vậy, nhìn chung, khái niệm tiểu thuyết lịch sử được các nhà văn, nhà phê bình, nghiên cứu văn học cho là khá đa dạng nhưng đều có các đặc điểm chung. Thứ nhất, tiểu thuyết lịch sử mang đầy đủ đặc trưng của thể loại tiểu thuyết, nội dung của nó là viết về sự kiện lịch sử, hoặc con người lịch sử trong một bối cảnh lịch sử nhất định. Thứ hai, “hư cấu” là một phần đặc trưng của tiểu thuyết lịch sử, nhưng nhà văn hư cấu làm sao để diễn tả “ thực” nhất về con người lịch sử, sự kiện lịch sử đó. “Hư cấu” không phải là sự bịa đặt, làm sai lệch lịch sử mà là sự sáng tạo để lịch sử được thể hiện chân thực nhất. Thứ ba, mỗi nhà văn khi viết tiểu thuyết lịch sử cần có trách nhiệm với ngòi bút của mình, cần có một tri thức phong phú liên quan đến câu chuyện lịch sử trong tác phẩm. Trách nhiệm của nhà văn cầm bút viết lịch sử chính là sự tôn trọng đối với người đọc, sự tôn trọng đối với văn hóa dân tộc.
Thời kì trung đại, tiểu thuyết lịch sử ít được quan tâm, phát triển. Đặc biệt, tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này chủ yếu được viết dưới dạng tiểu thuyết chương hồi. Trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ X - XIX - Những vấn đề lí luận và lịch sử, PGS. TS Nguyễn Đăng Na nhận định: “Tiểu thuyết chương hồi dựa trên cơ sở truyền thống tự sự dân gian và tự sự lịch sử dân tộc; về hình thức, chúng một mặt tiếp thu kinh nghiệm của tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa; mặt khác kế thừa thành tựu tự sự của văn học viết Việt Nam và dùng chữ Hán văn ngôn. Cho nên, muốn hiểu tiểu thuyết chương hồi, ta sẽ bắt đầu từ tự sự dân gian và tự sự lịch sử dân tộc; nghĩa là chúng ta bắt đầu từ loại hình truyện ngắn Việt Nam” [15, tr.817].
Có thể nói, từ thế kỉ X - thế kỉ XVII, điều kiện lịch sử - xã hội và văn hóa - văn học Việt Nam tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết chương hồi. Từ thế X - XIV, văn học Việt Nam có các tác phẩm sưu tầm dã sử lưu truyền trong dân gian, hoặc những sách sử của các giáo phái, thần tích, thần phả, văn bia… Đó là một loạt các tác phẩm Ngoại sử kí (Đỗ Thiện biên soạn), An Nam chí lược (Lê Tắc biên soạn), Nam Việt thế chí (Hồ Tông Thốc biên soạn), Việt điện u linh (Lý Tế Xuyên soạn)… Đây là giai đoạn phát triển của tự sự dân gian và tự sự lịch sử. Bước sang giai đoạn thế kỉ XVI - XVIII, “truyện ngắn thế tục đã bứt ra khỏi lối tự sự dân gian và văn học chức năng, vươn lên thành một loại hình nghệ thuật mới - truyện ngắn truyền kì - thì tự sự lịch sử vẫn lúng túng theo dòng chảy mà bờ bên này là văn học chức năng hành chính - lối viết sử và bờ bên kia là văn học chức năng lễ nghi - lối viết thần tích” [15, tr.830]. Giai đoạn này ra đời các cuốn Chích quái lục, U linh tập, Ngũ lục… Đặc biệt, sự góp công sức lớn lao của Nguyễn Hằng với cuốn Thiên Nam vân lục liệt truyện, ông được đánh giá là người đi mở đầu trong việc đưa truyện ngắn lịch sử rời khỏi bến bờ của liệt truyện nhưng chưa thành công. Tuy nhiên, một loạt những tác phẩm của ông như truyện ngắn Vuốt rồng, Trưng Vương, Hai anh em họ Trương, Phạm Cự Nhĩ, … nhất là cuốn Thiên Nam vân lục liệt truyện tạo nên “nấc thang đưa tự sự lịch sử tiến dần đến loại hình văn học đích thực, để từ đó tạo đà cho tiểu thuyết chương hồi ra đời” [15, tr. 829].
Bước sang thế kỉ XVIII, tiểu thuyết chương hồi mới bắt đầu được hình thành và phát triển. Về mặt đề tài, tiểu thuyết chương hồi thời kì này đều tập trung phản ánh những biến cố của dân tộc. Mở đầu là cuốn Nam triều công nghiệp diễn chí (sau đổi tên thành Việt Nam khai quốc chí truyện), ra đời năm 1719 của Nguyễn Khoa Chiêm được đánh giá là “trường hợp duy nhất trong văn xuôi tự sự nói chung, trong tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời trung đại nói riêng có một tác giả thẳng thắn nhận mình viết văn chương chứ không phải viết lịch sử” [15, tr.832]. Tác phẩm phản ánh sự nghiệp khai phá, hình thành Nam triều của các chúa từ Nguyễn Hoàng đến Nguyễn Phúc Tần. Tiếp đó là cuốn Thiên nam liệt truyện, ghi lại cuộc chiến Lê - Mạc kéo dài hơn một trăm năm dưới dạng cuốn gia phả của dòng họ Nguyễn ở Hoan Châu. Đến khi Hoàng Lê nhất thống chí ra đời đánh dấu bước phát triển rực rỡ của tiểu thuyết chương hồi thời kì trung đại, ghi lại quá trình lịch sử từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa, Đặng Thị Huệ lộng hành đến khi Nguyễn Ánh lật đổ nhà Tây Sơn lập nên nhà Nguyễn (1768- 1802). Cuối cùng, cuốn Long hưng chí năm 1904 và cuốn Việt Nam tiểu sử năm 1908 của Ngô Giáp Đậu đánh dấu sự bế tắc của tiểu thuyết chương hồi, nhường bước phát triển cho tiểu thuyết hiện đại Việt Nam.
Trên bình diện thể loại, tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí vừa kế thừa những đặc trưng tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa, vừa mang những nét sáng tạo của tác giả, đậm đà truyền thống dân tộc Việt Nam. Thứ nhất, tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa viết theo trình tự thời gian diễn biến của sự kiện lịch sử, thời gian nêu lên ở đầu các sự kiện, rồi sau đó liên tiếp diễn ra các sự kiện tiếp theo. Mỗi hồi là sự mở đầu và kết thúc một sự kiện. Các hồi sau là chuỗi các sự kiện nối tiếp nhau theo trình tự thời gian. Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm cũng được viết theo trình tự thời gian, dài hơn 600 trang, ghi lại cuộc đi khai phá phương Nam của chúa Nguyễn Hoàng, cho đến thời kì chiến tranh Nam - Bắc triều (khoảng từ năm 1558 đến năm 1627). Đặc điểm thứ hai là sau mỗi sự kiện, tác giả thường kết luận lại bằng một bài thơ. Lời câu thơ, bài thơ đó không chỉ đúc kết sự kiện mà còn thể hiện quan niệm, cảm xúc của tác giả trước sự kiện lịch sử đó. Riêng cách giới thiệu nhân vật trong tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa thường mang vóc dáng sử thi, ước lệ hóa, mang tính công thức của người Hán thì Nguyễn Khoa Chiêm đã đổi mới bằng cách tự tái hiện hình ảnh nhân vật của mình, mang dáng vẻ gần gũi của con người Việt Nam, không theo công thức ước lệ đặc trưng.
Đến cuốn Hoàng Lê nhất thống chí, nhiều đặc điểm thể loại trên dần được cách tân. Hoàng Lê nhất thống chí gồm 17 hồi nhưng không viết theo trình tự thời gian của sự kiện, mà lựa chọn những sự kiện đặc sắc nhất, ấn tượng nhất, tái hiện những biến cố mang tính bước ngoặt lịch sử từ thời kì chúa Trịnh Sâm đến khi vua Gia Long đánh bại phong trào Tây Sơn. Bên cạnh những yếu tố lịch sử, cuốn tiểu thuyết còn thể hiện không gian nghệ thuật trải dài từ Bình Định - Phú Xuân đến Thăng Long, Kinh Bắc… Đặc điểm thứ ba, Hoàng Lê nhất thống chí, các hồi không được đúc kết bằng các câu thơ mà được thay thế bằng nhân vật là “dân gian”, là “trời” để thể hiện thái độ của người viết. Ngoài ra, nhân vật trong tác phẩm này không chỉ là tầng lớp vua quan, triều đình mà còn là tầng lớp binh lính, quân ô hợp… tái hiện sâu sắc, hoàn chỉnh xã hội thời Lê. Rất nhiều nhân vật được xây dựng một cách xuất sắc, toàn diện bằng bút pháp khách quan, đặt nhân vật vào trong những thời điểm buộc nhân vật thể hiện tính cách mình. Hoàng Lê nhất thống chí còn là tác phẩm thể hiện được tiếng cười phê phán của người viết thông qua tình huống, nhân vật, sự kiện. Chính vì các đặc điểm trên, Hoàng Lê nhất thống chí được coi là tác phẩm đánh dấu sự phát triển , cách tân rực rỡ của tiểu thuyết chương hồi trong văn chương Việt Nam.
Như vậy, có thể khẳng định được rằng, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thời kì trung đại chưa có điều kiện phát triển do hoàn cảnh lịch sử chi phối, và chủ yếu là những tác phẩm tiểu thuyết chương hồi. Về thể loại, tiểu thuyết chương hồi Việt Nam vừa kế thừa tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc, vừa có những cách tân mới lạ, mang đậm bản chất truyền thống dân tộc. Về nội dung, tiểu thuyết chương hồi đề cập đến những sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước, những biến cố, phản ánh quá trình chống nội phản, ngoại xâm- quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, mang giá trị văn học và lịch sử sâu sắc.
Những năm đầu thế kỉ XX, ở Việt Nam mở đầu là xu hướng dịch tiểu thuyết Trung Hoa. Các tác phẩm được dịch chủ yếu là tiểu thuyết anh hùng: La Thông Bắc Tảo, Ngũ hổ bình Tây, Anh hùng náo Tam Môn Giai… tiểu thuyết kiếm hiệp như: Phong kiếm xuân thu, Giang hồ nữ hiệp, Hậu Hán tam hợp bảo kiếm… và tiểu thuyết tình cảm xã hội như Tây Sương ký, Tuyết hồng lệ sử… Từ đó, các nhà văn Việt Nam bắt đầu phản kháng lại phong trào dịch “Truyện Tàu” bằng cách sáng tác truyện văn xuôi quốc ngữ, đặc biệt là tiểu thuyết lịch sử để nâng cao ý thức, tinh thần dân tộc trong con người Việt Nam. Như Võ Quang Nhơn nhận định trong bài viết Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc với sự hình thành và phát triển nền tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Kì cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đăng trên website khoa Văn học, trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân văn TP.HCM ngày 15/09/2011: “Phong trào sáng tác những truyện văn xuôi quốc ngữ, những “kim thời tiểu thuyết”, và tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thời kì này là một phản ứng của lòng tự trọng dân tộc trước sự du nhập văn hóa nước ngoài, nhưng quan trọng hơn, đó là bước quẫy đạp mạnh mẽ của văn học Việt Nam để thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa lâu đời của văn học Trung Hoa, là một nỗ lực trên bước đường hiện đại hóa của văn học Việt Nam, bước đường vượt ra khỏi ảnh hưởng của văn học khu vực để hòa nhập vào dòng chảy của văn học thế giới” [46].
Khoảng hai mươi năm đầu thế kỉ XX, tiểu thuyết lịch sử ở Nam Bộ theo khuynh hướng “ngoại sử”. Có nghĩa là, tác giả văn học dùng lịch sử là phương tiện để miêu tả cuộc sống đời tư, cuộc sống cá nhân của con người hoàn toàn được hư cấu, không có thực trong lịch sử. Phần lớn các tác giả vẫn sử dụng lối văn biền ngẫu và kết thúc có hậu như tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa.
Đến đầu những năm 30, tiểu thuyết lịch sử Nam Bộ viết theo khuynh hướng “dã sử”- nghĩa là viết về những nhân vật lịch sử có thực chứ không phải hư cấu như “ngoại sử”. Như lời tựa của Tân Dân Tử trích trong lời tựa cuốn Gia Long tẩu quốc: “Lịch sử đại lược chỉ nói tóm tắt những sự lớn lao mà không nói cặn kẽ những sự mảy mún. Còn lịch sử tiểu thuyết thì nói đủ cả, vừa chuyện lớn lao vừa chuyện mảy mún, đều trang ra như một cảnh vật tự nhiên hiển hiện trước mắt. Lịch sử đại lược có nói nhơn vật sơn xuyên, quốc gia hưng phế mà không tả trạng mạo ngữ ngôn, không tả tánh tình phong cảnh. Còn lịch sử tiểu thuyết thì tả đủ các nhơn vật sơn xuyên, tánh tình ngôn ngữ, tả tới hỉ nộ ái ố, trí não tinh thần, tả tới phong cảnh cỏ hoa, nhà cửa đài các, cành chim lá gió, nhạc suối kèn ve, làm cho độc giả ngồi xem quyển sách, miệng đọc câu văn mà tưởng mình hóa thân đi du lịch một phong cảnh nào kia, xem thấy một nhân vật nào đó…” [10, tr.5]. Có thể nói rằng, với khuynh hướng “dã sử”, nhà văn miêu tả nhân vật có thực, trong hoàn cảnh thực, tính cách nhân vật, tình tiết câu chuyện sống động hơn so với “ngoại sử”. Trong giai đoạn này, số lượng tác giả và tác phẩm tiểu thuyết lịch sử tăng lên nhanh chóng. Tiêu biểu trong số đó là: Giọt máu chung tình, Gia Long Phục quốc… của Tân Dân Tử, Lê Triều Lý Thị của Phạm Minh Kiên, Nam cực tinh huy của Hồ Biểu Chánh…
Trong bài viết Tiểu thuyết lịch sử - một khuynh hướng nổi bật trong văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ đầu thế kỉ XX trên website khoa Văn học, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM, Phan Mạnh Hùng đã nhận định về thể loại, tiểu thuyết lịch sử ở Nam Bộ chủ yếu được viết theo thể loại tiểu thuyết chương hồi, “lối kết cấu mạch lạc, thời gian đơn tuyến, miêu tả ngoại hình để khắc họa nhân vật, người kể chuyện ở ngôi thứ ba, ngôn ngữ theo lối biền ngẫu, kết thúc có hậu” [40]. Kết cấu tác phẩm giai đoạn này theo trình tự thời gian, đơn tuyến, xoay tròn, khép kín, tất cả sự kiện, biến cố, số phận nhân vật đều theo trình tự thời gian từ trước đến sau. Các câu văn biền ngẫu vẫn được sử dụng trong tác phẩm và việc miêu tả nhân vật, cảnh vật cũng còn chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa.
Giai đoạn này, phải kể đến sự đóng góp lớn của nhà văn Lan Khai - “người đầu tiên mở hướng cách tân” - “người có số lượng tiểu thuyết lịch sử lớn nhất thế kỉ XX”[52]. Gần ba mươi tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai: Gái thời loạn, Ai lên phố Cát, Chế Bồng Nga, Tiếng khóc trong sương, Cánh buồm thoát tục… được viết theo hai khuynh hướng “lịch triều” và “dã sử” với thế giới nhân vật phong phú từ vua quan cho đến quần chúng, vừa diễn giải lịch sử vừa thể hiện triết lí nhân sinh. Như Nguyễn Mạnh Tiến nhận định trong bài viết Tiểu thuyết lịch sử và người đầu tiên mở hướng cách tân đăng trên Báo điện tử Văn hóa Nghệ An, ngày 24- 02- 2011: “Nhà văn đã tước đi những yếu tố ước lệ, các điển tích, điển cố, những “khuôn mẫu” trong văn chương trung đại và những trang viết của nhà Nho đầu thế kỉ XX. […]. Việc thoát ra kiểu kết cấu chương hồi, tạo tiếng nói đa thanh, phức điệu, kết hợp hòa trộn yếu tố sử thi, thế sự, đời tư, kì ảo, tâm lí, lạ hóa, khéo sử dụng cái hài cùng chất liệu văn hóa dân gian là những cách làm mới của tiểu thuyết Lan Khai” [52]. Bên cạnh đó, còn là những tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nguyễn Tử Siêu, Nguyễn Triệu Luật… gây được tiếng vang lớn trong giai đoạn này.
Từ sau những năm 40 của thế kỉ XX, trên văn đàn xuất hiện nhiều cuốn tiểu thuyết lịch sử đáng chú ý như: Đêm hội Long Trì (1942), An Tư (1944), Lá cờ thêu sáu chữ vàng (1960) của Nguyễn Huy Thiệp, Cờ nghĩa Ba Đình của Thái Vũ,Bóng nước Hồ Gươm (1970) của Chu Thiên… Trước hoàn cảnh đất nước chống đế quốc Pháp - Mỹ sôi nổi, tiểu thuyết lịch sử góp phần thể hiện tinh thần dân tộc ở khía cạnh ca ngợi những anh hùng dân tộc, hình tượng quần chúng của quá khứ  được nhà văn ngợi ca như những người nhân dân anh hùng.
Nhìn chung, về mặt thể loại, tiểu thuyết lịch sử thế kỉ XX được chia làm hai giai đoạn nhỏ. Những năm đầu thế kỉ XX, tiểu thuyết lịch sử ở Nam Bộ vẫn theo đặc trưng của tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa. Đến giai đoạn từ sau những năm 40 của thế kỉ XX, tiểu thuyết lịch sử bắt đầu khuynh hướng thoát ra khỏi lối viết cổ điển của tiểu thuyết chương hồi, bắt đầu sử dụng các yếu tố hư cấu để diễn giải lịch sử. Tuy nhiên, nhược điểm của tiểu thuyết giai đoạn này vẫn là lối viết dài, đôi khi chưa phù hợp với tình hình đất nước trong chiến tranh.
Từ năm 1986 đến nay, tiểu thuyết lịch sử đã có bước phát triển lớn mạnh không ngừng. Như Trần Đình Sử nhận định trong bài viết Lịch sử và tiểu thuyết lịch sử đăng trên Báo điện tử Văn hóa Nghệ An, ngày 13-04-2013: “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thời kì đổi mới, có rất nhiều tác phẩm đến được với lòng người, được người đọc trân trọng, yêu chuộng. Điểm đáng chú ý nhất của nó đã vượt qua mô hình cũ, tạo ra nhiều hướng phát triển hứa hẹn. Có hướng “văn chương hóa lịch sử” như Hoàng Quốc Hải với hai bộ trường thiên. Có hướng nghiêng về phương diện văn hóa, đối thoại văn hóa như Nguyễn Xuân Khánh, có hướng diễn giải lại lịch sử như Nguyễn Thị Lộ của Hà Văn Thùy, có hướng “phi trung tâm hóa” như Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, có hướng phi huyền thoại hóa lịch sử  như Hội thề của Nguyễn Quang Thân, có hướng đối thoại với chính sử như Mạc Đăng Dung của Lưu Văn Khuê, có hướng đổi mới cách nhìn như Biết đâu địa ngục thiên đường của Nguyễn Khắc Phê, có hướng viết “tiểu sử gia tộc” hư cấu, mà thực ra là viết lịch sử thời đại với con mắt giễu nhại trong Thời của Thánh thần của Hoàng Minh Tường, Dưới chín tầng mây của Dương Hướng, Cuồng phong của Nguyễn Phan Hách, còn có hướng ngụ ngôn hóa lịch sử…” [57]. Chỉ bằng một nhận định, Trần Đình Sử đã nêu bật những hướng sáng tác chính, những tên tuổi nhà văn nổi bật, tác phẩm tiểu thuyết lịch sử gây được tiếng vang lớn của nền văn học đương đại. Bên cạnh đó, còn là những tác phẩm của Trần Thu Hằng (Đàn đáy), Võ Thị Hảo (Giàn thiêu)… Có thể khẳng định được rằng, tiểu thuyết lịch sử đương đại nói riêng trong văn học Việt Nam đương đại phát triển rất phong phú về đề tài, tác giả, tác phẩm, khuynh hướng sáng tác, đặc điểm thể loại và được bạn đọc đánh giá cao.
Theo quan điểm của Nguyễn Văn Dân trong bài viết Mấy phương hướng chủ yếu của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại trên Báo điệntử Tổ quốc, ngày 11/03/2011, cho rằng tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này chia làm ba loại: tiểu thuyết lịch sử chương hồi, tiểu thuyết lịch sử giáo huấn và tiểu thuyết lịch sử luận giải. Thông qua cách phân chia này, chúng ta cũng hiểu thêm về thể loại và đề tài, khuynh hướng sáng tác của các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử đương thời. Đầu tiên, tiểu thuyết lịch sử quay lại với thể loại tiểu thuyết chương hồi vốn dĩ rất quen thuộc nhưng trong hoàn cảnh đổi thay của văn học, nhiều nhà văn vẫn lựa chọn sáng tác theo thể loại này, “cũ” mà lại “mới”, vừa truyền thống mà vừa hiện đại. Nhiều tác phẩm gây được tiếng vang lớn như: Tây Sơn hùng bi truyện của Lê Đình Danh (năm 2006), Phùng Vương của Phùng Văn Khai (năm 2015). Về cơ bản, tiểu thuyết chương hồi đương đại vẫn tuân thủ mô hình tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc trong đặc điểm phân hồi, các câu đối ngẫu, lời dẫn truyện, lối trần thuật, diễn biến sự kiện theo mạch thời gian. Mặc dù vậy, tiểu thuyết chương hồi giai đoạn này còn được tạo dựng bởi cảm hứng hiện đại, cảm hứng dân tộc sâu sắc và thể hiện được sự lí giải của tác giả đối với vấn đề, nhân vật lịch sử trong tác phẩm.
Bên cạnh đó, tiểu thuyết lịch sử giáo huấn cũng là khuynh hướng sáng tác thu hút nhiều nhà văn. Nghĩa là trong tác phẩm của mình, bên cạnh việc diễn giải lịch sử, nhà văn còn thể hiện cách nhìn nhận của mình về nhân tình, thế thái, con người, lịch sử dân tộc. Nhà văn Hoàng Quốc Hải được Nguyễn Văn Dân cho là “đại diện tiêu biểu” của người viết tiểu thuyết lịch sử giáo huấn. Trong bài Mấy xu hướng chủ yếu trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại, Nguyễn Văn Dân viết: “các nhân vật trong tiểu thuyết của Hoàng Quốc Hải mang nặng dấu ấn quan điểm “dùng văn để dạy sử” của nhà văn. Tiểu thuyết của ông tái hiện những giai đoạn lịch sử dài của dân tộc theo cấu trúc thời gian tuyến tính, truyền đạt được “tinh thần của lịch sử” [35].
Ngoài ra, tiểu thuyết lịch sử luận giải cũng là quan điểm cầm bút của nhà văn đương đại, tiêu biểu là nhà văn Nguyễn Xuân Khánh và Nguyễn Quang Thân. Các nhà văn đi sâu khai thác yếu tố luận đề, tâm lý của nhân vật, lựa chọn yếu tố lịch sử “có vấn đề” để sáng tác, luận giải. Thời gian trong tác phẩm là thời gian đa chiều, các sự kiện của hiện tại đan lồng với quá khứ. Do đó, người kể chuyện cũng linh hoạt, khi thì ở ngôi kể thứ ba, khi lại ở ngôi kể thứ nhất. Với xu hướng này, tiểu thuyết bộc lộ sự linh hoạt trong điểm nhìn trần thuật, thời gian sự kiện, không gian lịch sử, ngôn ngữ và đặc điểm nhân vật cũng được thể hiện đa chiều. Chính đặc điểm thể loại như vậy góp phần thể hiện được cách nhìn nhận lịch sử khách quan của nhà văn, thể hiện được hướng tiếp cận lịch sử rất mới lạ của người cầm bút.
Như vậy, có thể khẳng định rằng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại có bước phát triển vượt bậc về cả đề tài, khuynh hướng sáng tác, đặc điểm thể loại. Xét riêng về thể loại, giai đoạn này các nhà văn sử dụng yếu tố hư cấu trong tiểu thuyết như một phương tiện để truyền tải lịch sử, góp phần tăng thêm giá trị văn chương trong cuốn tiểu thuyết. Bên cạnh đó, nhiều nhà văn sử dụng lối viết theo tiểu thuyết chương hồi, nhưng cũng có nhiều nhà văn lựa chọn sáng tạo, linh hoạt về điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ kể chuyện, thời gian sự kiện theo tiểu thuyết hiện đại. Chính sự  đa dạng trong phong cách sáng tác của mỗi cá nhân, trong mỗi tác phẩm đã tạo nên sự thành công của tiểu thuyết lịch sử trong văn học những năm gần đây.
Phùng Văn Khai sinh năm 1973, quê ở thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, Hưng Yên. Anh tốt nghiệp khóa VI trường Viết văn Nguyễn Du, nay là Khoa Lý luận- sáng tác- phê bình văn học, trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Anh nhập ngũ tháng 2 năm 1994, thì đến tháng 8 đã đoạt giải thưởng cuộc thi viết Kỷ niệm sâu sắc thời bộ đội của Tổng cục Chính trị với truyện ngắn đầu tay Lính tò te. Năm 1997, anh về công tác tại Truyền hình Quân đội. Hiện nay, Phùng Văn Khai là nhà văn Tạp chí Văn nghệ quân đội. Phùng Văn Khai được đánh giá là: “nhà văn ưa kiểm định mình bằng những trải nghiệm thể loại” (nhà phê bình Phùng Gia Thế). Anh là cây bút sáng tạo không ngừng nghỉ, thử sức mình bằng truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, thậm chí cả chân dung văn học. Cuốn truyện ngắn đầu tay của Phùng Văn Khai là Khúc dạo đầu của binh nhì (NXB Quân đội - in chung với Phùng Kim Trọng). Tiếp đó, năm 2002 anh ra mắt tập truyện ngắn Đêm trăng thiêng (NXB Hội nhà văn). Năm 2004, nối tiếp là tập truyện ngắn Hương đất nung (NXB Phụ nữ). Bên cạnh đó anh còn sáng tác tập thơ Lửa và hoa. Và đặc biệt, anh thử sức mình ở thể loại tiểu thuyết với các tiểu thuyết Hư thực (năm 2009, NXB Văn học), Hồ đồ (năm 2011, NXB Văn học) và tiểu thuyết lịch sử Phùng Vương năm 2015 (NXB Hội nhà văn). Ngoài ra, anh còn là tác giả của tập bút kí Lẽ sống và ba tập chân dung văn học: Lê Lựu như tôi biết, Tản mạn Nguyễn Bình Phương, Phác họa mấy chân dung văn học.
Phùng Văn Khai quan niệm: “Tôi cho rằng văn chương là một nghề đặc biệt khó khăn nhưng nó cũng có sự mê dụ đặc biệt… Nghề văn phải cho nhiều hơn nhận, tích nhiều hơn tiêu, vì nó đem đến sự bình an cho tâm hồn nên phải thủy chung, quyết theo đến tận cùng, cho dù hệ lụy là đau khổ hay hạnh phúc. Tôi đang bước trên con đường ấy…” [37]. Bên cạnh đó, khi trả lời phỏng vấn bài báo Nhà văn Phùng Văn Khai - sự đa chiều của cuộc sống hiện đại trên báo điện tử Công luận, tác giả chia sẻ: “Với người cầm bút, tôi có suy nghĩ, tác phẩm văn học, đặc biệt là tiểu thuyết và truyện ngắn trước hết và trên hết phải phản ánh hiện thực. Hiện thực phải là thứ hiện thực đã được chưng cất kỹ lưỡng từ cuộc sống. Những nhân vật, tình tiết, hình ảnh, kết cấu của tác phẩm nếu được lấy từ chính cuộc sống đang diễn ra hôm nay sẽ có sức nặng và cơ hội thành công cao” [56]. Có lẽ vì thế, tác phẩm của Phùng Văn Khai luôn chú trọng vào con người, hiện thực cuộc sống, dễ đi sâu vào lòng bạn đọc.
Truyện ngắn Phùng Văn Khai chủ yếu xoay quanh hai đề tài chính là nông thôn và người lính. Với truyện ngắn viết về người lính, anh được đánh giá là: “Ở đề tài này, với vốn am hiểu sâu sắc về quân ngũ đã khiến tác giả nhập vai một cách xuất sắc… Ngôn ngữ truyện trong sáng, giá trị gợi hình, gợi cảm lớn, nhất là từ ngữ miêu tả tâm trạng được sử dụng một cách chính xác. Văn ngôn giản dị mà không sơ sài, đã sử dụng một cách triệt để các từ thuần Việt để tạo ra cảm giác gần gũi” [56]. Truyện ngắn Phùng Văn Khai gợi lên những ám ảnh về chiến tranh, những trải nghiệm về người lính, những đồng cảm, chiêm nghiệm của nhà văn về con người nông thôn nghèo khó. Một loạt những sáng tác của anh gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng độc giả như: Chữ kí, Cúc tần sông, Bên bến đò Lăng, Người đàn ông và bức tường, Bên kia sông, Mênh mông trời nước, Hương đất nung, Những người đốt gạch… Nói như nhận định của nhà phê bình Phùng Gia Thế trong bài viết Truyện ngắn Phùng Văn Khai - đôi nét phác thảo: “Đọc truyện ngắn Phùng Văn Khai, không thấy sự làm dáng chữ nghĩa, cũng không thấy các kiểu lạ hóa cấu trúc văn bản. Điều này cũng có nghĩa, viết truyện ngắn, Phùng Văn Khai không lấy cách tân hình thức làm đầu. Ấn tượng đầu tiên trong thế giới truyện Phùng Văn Khai là sự đồng hành và chung sống của nhà văn với những kiếp người bất hạnh, khổ đau. Có thể nhận ra, kiểu con người lam lũ, bất hạnh, khổ đau đã trở thành tâm điểm tự sự trong thế giới nghệ thuật của anh” [50]. Quả thật, truyện ngắn là một trong những thể loại để Phùng Văn Khai khẳng định sức mình.
Với thể loại tiểu thuyết, Phùng Văn Khai ra mắt bạn đọc bộ ba cuốn Hư thực, Hồ đồ và tiểu thuyết lịch sử Phùng Vương đều được nhiều nhà phê bình đánh giá cao. Với tiểu thuyết Hư thực, nhà văn Dương Hướng nhận định: “Hư thực trước hết là cuốn tiểu thuyết có lối viết khác với tất cả các cuốn tiểu thuyết Việt Nam mà tôi đã đọc… Một cuốn tiểu thuyết có bố cục rất lạ, không đầu, không cuối, không chương hồi, không cốt truyện, không biết đâu là nhân vật chính, không biết đâu là nhân vật phụ, tất cả được thể hiện bằng những giấc mơ” [43]. Còn tiểu thuyết Hồ đồ, xoay quanh đề tài hội chứng chất độc màu da cam của Mỹ xuống miền Nam, với thủ pháp hồi tưởng, tác giả đã lên án những kẻ gây ra bi kịch nhân sinh sâu sắc. Đặc biệt với tiểu thuyết lịch sử Phùng Vương “siêu phẩm lịch sử”- một cuốn tiểu thuyết được tác giả đầu tư mười năm sáng tác, tìm hiểu thực sự gây được sự thu hút của bạn đọc và các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.
Ngày 15- 10- 2015, tiểu thuyết Phùng Vương chính thức được ra mắt bạn đọc. Cuốn sách do nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành, độ dài 630 trang. Với ba mươi hai hồi, Phùng Vương đã lột tả trọn vẹn về quá trình chống giặc phương Bắc của nhân dân ta dưới sự chỉ huy của hai cha con Phùng Hạp Khanh và Phùng Hưng. Như nhà phê bình Bùi Việt Thắng đã nhận định trong bài viết Ra mắt tiểu thuyết lịch sử Phùng Vương sau 10 năm ấp ủ của phóng viên Cẩm Tú trên báo Tuổi trẻ thủ đô: “Về hai cha con nhân vật lịch sử Phùng Hạp Khanh và Phùng Hưng, tài liệu chính sử cũng như dã sử không còn nhiều, nhà tiểu thuyết gặp không ít khó khăn khi viết. Công việc của nhà văn giờ đây là đọc các tài liệu có liên quan, gián tiếp hay trực tiếp để thu lượm. Song có lẽ, quan trọng hơn cả, theo tôi, nhà văn phát huy cao độ trí tưởng tượng của mình trên từng trang sách. Độ dài của tiểu thuyết (hơn 600 trang) đã không làm nản chí độc giả ngày nay đã rất thông minh, khó tính và thậm chí đôi khi hơi… đỏng đảnh. Tôi nghĩ đó là thành công của tác phẩm” [53]. Quả thật, với quá trình ấp ủ cuốn tiểu thuyết mười năm, Phùng Văn Khai không chỉ khai thác, tìm tòi về nhân vật lịch sử mà đã thể hiện lịch sử trong văn chương theo sự sáng tạo cá nhân, được đông đảo bạn đọc và nhà phê bình đón nhận.
Xét về khía cạnh nội dung, cuốn tiểu thuyết xoay quanh nhân vật lịch sử chính - Phùng Hạp Khanh và Phùng Hưng, bối cảnh lịch sử là khoảng 20 năm nhân dân ta chống lại ách đô hộ của nhà Đường. Không gian lịch sử có thật là nhân dân Đường Lâm, với những hình ảnh sông núi, con người cùng kháng chiến chống giặc. Cuốn tiểu thuyết tái hiện chân dung anh hùng dân tộc - những người dân yêu nước, những tướng lĩnh tài ba: Phùng Hạp Khanh, Phùng Hưng, Bồ Phá Giang, Đỗ Anh Hàn, Vũ Khánh… đến hình ảnh những người lính xông pha nơi trận mạc đều được tác giả khắc họa chân thực. Là một nhà văn hiện đại viết về quá khứ, lịch sử của dân tộc, Phùng Văn Khai lí giải lịch sử bằng cảm hứng hiện đại, cảm hứng dân tộc sâu sắc, ngợi ca lịch sử hào hùng. Đọc tiểu thuyết Phùng Vương, độc giả không chỉ thấy được bức tranh lịch sử hào hùng, thấy được nhân vật lịch sử anh dũng, mà còn thấy được tài năng của nhà văn, của người nghệ sĩ viết sử trong văn chương.
Xét trên khía cạnh thể loại, Phùng Văn Khai mạnh dạn lựa chọn tiểu thuyết chương hồi - một thể loại đã có từ rất lâu đời để tái hiện câu chuyện lịch sử của mình. Thế nhưng, đây lại được các nhà nghiên cứu phê bình văn học đánh giá là sự lựa chọn “khôn ngoan” của tác giả. Như Bùi Việt Thắng nhận định: “Tiểu thuyết chương hồi vốn là đặc sản của văn chương Trung Quốc. Nay được tiếp biến bởi một nhà văn thế hệ 7x như Phùng Văn Khai, kể ra là một vấn đề vừa có ý nghĩa lý thuyết vừa có ý nghĩa thực tiễn của sáng tác văn chương. Ba mươi hai hồi của tiểu thuyết Phùng Vương phù hợp với những câu chuyện mở ra đủ cả “bốn phương tám hướng”. Cấu trúc chương hồi quả là một thứ “bình cũ rượu mới”. Tôi thấy Phùng Văn Khai tỏ rõ sở trường, sở đoản khi viết tiểu thuyết theo lối cấu trúc này mà không hề gợi một băn khoăn nào về thành bại của tác phẩm” [49]. Việc lựa chọn viết tiểu thuyết chương hồi đem lại nhiều thành quả lớn về mặt thể loại, cần được nghiên cứu một cách kĩ lưỡng hơn. Do đó, với đề tài Tiểu thuyết lịch sử Phùng Vương- những vấn đề thể loại, chúng tôi đi sâu tìm hiểu dấu ấn của tiểu thuyết chương hồi trong tác phẩm, đồng thời, khai thác những giá trị mới mẻ về mặt nội dung và thể loại trong bút pháp viết tiểu thuyết của Phùng Văn Khai.
Có thể khẳng định rằng, tiểu thuyết lịch sử từ lâu đã trở thành đề tài nghiên cứu, sáng tác quen thuộc của thế hệ nhà văn, nhà nghiên cứu văn học. Văn học Việt Nam từ thời kì trung đại cho đến nay đón nhận rất nhiều tác phẩm tiểu thuyết lịch sử gây được tiếng vang lớn cho các nhà nghiên cứu và độc giả yêu thích văn học.
 Một trong những cây bút trẻ trong văn học Việt Nam đương đại viết về đề tài lịch sử gây ấn tượng sâu sắc với bạn đọc là Phùng Văn Khai với cuốn tiểu thuyết Phùng Vương. Tác phẩm của Phùng Văn Khai đa dạng về mặt thể loại. Tuy nhiên, nghiên cứu về sáng tác của nhà văn này chưa nhiều. Do đó, Tiểu thuyết lịch sử Phùng Vương - những vấn đề thể loại được coi là đề tài mở màn trong nghiên cứu tác phẩm Phùng Văn Khai, góp phần định hướng cách nhìn nhận về giá trị lịch sử và văn học - nghệ thuật của cuốn Phùng Vương và tài năng của cây bút trẻ này.

Sau đây xin giới thiệu một số hình ảnh về quần thể di tích Đình Triều Khúc, nơi thờ Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng tại phố Triều Khúc - Tân Triều - Thanh Trì - Hà Nội:


Đại đình


Phương đình


Đình sắc


Nghi môn Đình


Đình sàn