(Chủ nhật, 20/10/2019, 03:44 GMT+7)

ĐỀN VÀ LĂNG NGÔ QUYỀN

Xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây là nơi được mệnh danh là vùng đất “địa linh nhân kiệt”. Nơi đây cóđền thờ và lăng vị vua lừng danh trong lịch sử dân tộc, người nổi tiếng với trận Bạch Đằng lịch sử năm 938, đánh đuổi quân Nam Hán ra khỏi bờ cõi, mở ra một thời đại mới, độc lập, tự chủ cho dân tộc Việt Nam, đó là  Ngô Quyền. Nơi đây đã được Nhà nước công nhận làdi tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.

Đền và lăng Ngô Quyền được xây dựng trên một đồi đất cao, có tên là đồi Cấm, mặt hướng về phía Đông. Đền thờ được xây ở phía trên, cách lăng khoảng 100m. Phía trước lăng là một cánh đồng rộng nằm giữa 2 sườn đồi; một nguồn nước gọi là vũng Hùm chảy ra sông Tích; bên cạnh đó là đồi Hổ gầm, tương truyền xưa là nơi thuở nhỏ Ngô Quyền thường cùng bạn chăn trâu, cắt cỏ và tập luyện võ nghệ… Đây có lẽ là vị trí đẹp nhất của ấp Đường Lâm xưa.
Đền thờ Ngô Quyền được xây dựng từ lâu đời và đã qua nhiều lần trùng tu. Đền có quy mô khá khiêm tốn, gồm: Nghi môn, tả mạc, hữu mạc, đại bái và hậu cung.  Đền được xây bằng gạch, lợp ngói mũi hài, có tường bao quanh. Đại bái đền thờ là một nếp nhà 5 gian, bộ khung bằng gỗ, được thể hiện chủ yếu thiên về sự bền chắc, tôn nghiêm; gian giữa có treo bức hoành phi đề bốn chữ Hán “Tiền vương bất vong”. Hiện nay, đại bái còn được dùng làm phòng trưng bàyvề trận chiến thắng trên sông Bạch Đằng và thân thế, sự nghiệp của Ngô Quyền. Hậu cung là một ngôi nhà dọc 3 gian, bộ khung nhà bằng gỗ được trang trí tứ linh, hoa, lá... Gian giữa bài trí tượng thờ Ngô Quyền, long ngai, bài vị, hương án, quanh năm nghi ngút khói hương.

Lăng mộ Vua Ngô Quyền được xây dựng năm nào, hiện chưa tìm thấy một tấm bia đá nào khắc ghi chi tiết quan trọng này. Tấm bia đá duy nhất ở lăng ghi niên hiệu Tự Đức năm 27(1873). Toàn bộ khu lăng mộhình vuông, mỗi cạnh dài 9,89 m, được chia làm 2 phần: Lăng mộ và khuôn viên. Toàn bộ xung quanh riềm bức tường bao quanh và các thân trụ đỡ nhà che lăng mộ đều trang trí các hình tượng hoa văn cách điệu giản dị nhưng không kém phần trang trọng, vừa gần gũi, vừa tôn nghiêm. Nhà che lăng mộ cao khoảng 1,5m,dựng bằng gỗ quý, 4 mái lợp ngói mũi hài. Đầu đao mỗi mái đều uốn cong, trang trí cách điệu và được gắn mảnh sứ quanh riềm.Lăng hoàn toàn được xây kín, hình vuông, mỗi chiều dài 4m.Bức tường thân lăng bao xung quanh có chiều cao 2m. Trung tâm lăng mộ, phần linh thiêng nhất có gắn tấm bia đá khổ 54cm x 118cm, có khắc 4 chữ “Tiền Ngô Vương Lăng” với niên hiệu Tự Đức năm thứ 27 tháng 11 ngày 25. Hai bên là hai bức phù điêu hình tượng rồng bay đậm phong cách thời Nguyễn, có gắn các mảnh sành trang trí trên thân rồng, mặt sau được che chắn bằng bức phù điêu hình tượng mặt hổ phù.

Hàng năm cứ đến ngày 14 tháng 8 âm lịch- ngày giỗ Vua Ngô Quyền-  nhân dân trong vùng lại về đây để tưởng nhớ công ơn của ông - vị vua “đã mở nước xưng vương”, kết thúc hơn 1.000 năm Bắc thuộc, mở đầu một thời đại mới, độc lập, tự chủ cho lịch sử dân tộc.