(Thứ ba, 04/11/2025, 02:24 GMT+7)

Chùa Cù Tu hay Cảm Hóa Tự (xã Xuân Phúc, tỉnh Hưng Yên) là nơi thờ Phật, ngoài ra còn thờ Thái sư Thượng Phụ Trần Thủ Độ và Pháp Vân. Trần Thủ Độ là một người có công lớn với triều Trần, một tay cáng đáng nhiều trọng sự, giúp vua Trần Thái Tông bình phục được giặc giã trong nước và chỉnh đốn lại mọi việc, làm cho nước Nam ta bấy giờ được cường thịnh. Trần Thủ Độ đã chọn quê hương Cù Tu làm nơi lập căn cứ, trại ấp để chống giặc. Khi về già, Ngài cũng xuống tóc đi tu tại đây. Người còn cho phép nhân dân địa phương xây chùa, thuởng ruộng công cho những binh sỹ và dân nghèo cày cấy, miễn thuế cho dân 12 năm để giảm bớt khó khăn. Còn Pháp Vân là một trong bốn vị thần của đạo Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) ứng với 04 phép tạo ra (mây, mưa, sấm, chớp). Nhân dân tạc tượng Trần Thủ độ đưa vào thờ ở chùa Cù Tu với ước muốn cầu cho mưa thuận gió hoà. Chùa Cù Tu được xây dựng từ xa xưa, trải qua thời gian đã được tu sửa trùng tu nhiều lần. Hiện nay, chùa có kiến trúc chữ Đinh, mặt tiền hướng Tây Nam, gồm 05 gian Tiền đường và 03 gian Thượng điện. Chùa còn lưu giữ được hơn 60 pho tượng Phật cổ, đặc biệt bên trái cuối hậu cung còn lưu giữ được bệ khám thờ cổ, có đủ bộ (ngai, mũ, hia, bát hương, bài vị, ảnh... của Thái sư Trần Thủ Độ). Kết cấu ngôi chùa từng hạng mục còn tương đối đồng bộ, các mảng chạm khắc hoa văn mang phong cách kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn.


Ảnh: Ban Quản lý di tích Hưng Yên

Ngày 10/10/2025, Viện Nghiên cứu Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam đã có buổi về khảo sát, nghiên cứu, sưu tầm tại “Cụm Di tích lịch sử chùa Nghè Cù Tu”: Chúng tôi đã gặp Đồng thầy bà Hoàng Thị Hương người trụ trì tại chùa Cù Tu đã giới thiệu và theo tư liệu kiểm chứng của PGS.TS Nguyễn Minh Tường được sáng tỏ: Những năm cuối đời, Trần Thủ Độ đã đi tu tại chùa Cù Tugắn với cụm “Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật Chùa, Nghè Cù Tu” đã được UBND tỉnh Hưng Yên ra Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 22/12/2009 về việc xếp hạng và bảo vệ “Di tích Lịch sử Văn hóa cấp tỉnh Chùa, Nghè Cù Tu”. Đây là một gợi ý cho việc lý giải việc Thái sư Trần Thủ Độ được thờ tại “chùa Cù Tu, chùa Lim, chùa Cầu Đông, đình Thái Bình” và cũng theo PGS.TS Nguyễn Minh Tường: “Việc các ngôi chùa, vốn là nơi thờ Phật, nay lại thờ cả Thái sư Trần Thủ Độ, nói lên rằng: Ông từng có thời gian tu hành và có những công tích trực tiếp đối với Phật giáo Việt Nam”. 

"Cảm Hóa Tự" là một cụm từ ghép, thường chỉ việc dùng tình cảm, hành động tốt đẹp để làm cho một người nào đó thay đổi tích cực, cảm phục và noi theo. Cụm từ này được tạo thành từ hai thành phần chính: "Cảm hóa" (dùng tình cảm làm thay đổi) và "Tự" (bản thân) đã nói lên “Ngôi chùa Cù Tu là nơi mà Trần Thủ Độ đã xuống tóc đi tu khi về già”.

Cách chùa khoảng 1km là nghè Cù Tu, nơi đây còn tôn thờ hai anh em ruột là Ngài Ngòi Sái Đại Vương và Biến Lương Công chúa. Hai vị có công cùng với Mai Thúc Loan và Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng đứng lên khởi nghĩa chống quân nhà Đường phương Bắc xâm lược và giành thắng lợi. Nghè được khởi dựng từ sớm, trải qua thời gian đã nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Hiện nay, nghè có kiến trúc chữ Đinh gồm 03 gian Tiền tế và 02 gian Hậu cung. Các bộ vì làm kiểu kèo cầu quá giang đơn giản. Tại cụm di tích còn lưu giữ được 02 đạo sắc phong thời Khải Định (1924), bia đá, các câu đối, đại tự cổ...

Hằng năm, tại cụm di tích “Chùa, Nghè Cù Tu” tổ chức lễ hội truyền thống từ ngày mồng 09 đến ngày 12 tháng 03 âm lịch để ghi nhớ tới công ơn của các vị thần. Mở đầu lễ hội là rước Đức thánh Ông và Đức thánh Bà từ nghè về đình Cù Tu rồi làm lễ dâng hương. Sau đó tổ chức tế lễ và các hoạt động văn nghệ và trò chơi dân gian. Ngoài ra, vào ngày giỗ của Trần Thủ Độ (24/1 âm lịch), nhân dân cũng tổ chức nghi lễ long trọng. Trong lễ hội có tế lễ và thi giã bánh dày. Đây cũng là dịp để tưởng nhớ và tri ân công đức của thần, phật đối với dân làng và giáo dục truyền thống cho các thế hệ trẻ.

Với tư cách là một ông quan đầu triều, Trần Thủ Độ đã nêu một tấm gương sáng về tinh thần trách nhiệm trước quốc gia, dân tộc. Trước thế mạnh của quân Nguyên - Mông, khi được vua hỏi, ông đã trả lời bằng một câu quả quyết: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”. Và có lẽ chính vì thế mà các hoàng đế nhà Trần, từ Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông đều là những triết gia, những thi sĩ đứng ở đỉnh cao của văn hóa Đại Việt, nhưng những ông vua giàu chữ nghĩa ấy đều phải sâu sắc chịu ơn của Trần Thủ Độ - một người vốn không biết chữ. Không biết chữ, nhưng ông biết cách dựng lên một vương triều hùng mạnh nhất trong lịch sử phong kiến của nước nhà.

Trần Thủ Độ là người không chỉ có mưu lược trong việc dựng nước và giữ nước mà ông còn là một người có đầu óc tổ chức, phát triển kinh tế đất nước. Các tư liệu lịch sử về việc đổi mới kinh tế thời Trần (khi Trần Thủ Độ còn sống) không có nhiều, nhưng qua các tài liệu hiện còn lưu giữ, ta có thể thấy rằng khi thực sự nắm quyền điều hành đất nước, Trần Thủ Độ và Vương triều Trần đã nhận thấy sự yếu kém về kinh tế của nhà nước Đại Việt dưới thời Lý Huệ Tông. Vì thế ông đã tiến hành cho phép chuyển công hữu thành tư hữu. Cụ thể, Đại Việt sử ký toàn thư ghi: "Tháng Sáu bán ruộng công, mỗi diện 5 quan tiền (diện tương đương với mẫu bây giờ), cho phép nhân dân mua làm ruộng tư".

Không chỉ chú trọng phát triển kinh tế mà ông còn chủ trương phát triển Nho học. Trần Thủ Độ tâu vua cho xây Quốc Tử Giám, đẩy mạnh việc thi cử để tuyển chọn hiền tài cho đất nước: "Tháng 2 (1232), thi thái học sinh. Đỗ đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lưu Diễm, đệ nhị giáp là Đặng Diễn, Trịnh Phẫu, đệ tam giáp là Trần Chu Phổ". "Đinh Mùi năm thứ 16 (1247), mùa xuân, tháng 2, mở khoa thi chọn học trò. Cho Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ thám hoa, lấy đỗ thái học sinh 48 người". Chính nhờ sự chú ý và coi trọng (hiền tài là nguyên khí quốc gia) nên thời nhà Trần đã xuất hiện rất nhiều hiền tài phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đặc biệt là trong ba cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông, các nhân sĩ, tướng lĩnh Đại Việt, tuổi trẻ tài cao đã góp phần làm vẻ vang cho lịch sử dân tộc như: Nguyễn Hiền, Đặng Ma La, Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải. Ông đề ra khung bậc, thể thức của luật hình. Tạo đường cho Bộ Quốc triều hình luật ra đời để tiện việc nắm tình hình đất nước, quản lý chặt chẽ hơn. Trần Thủ Độ chia nước thành 12 lộ, mỗi lộ đặt chức chánh phủ xứ. Trần Thủ Độ còn duyệt định hộ khẩu trong cả nước, đặt các chức quan đại tư xã cùng các chức xã chính, xã quan. Không chỉ là người đề ra các tư tưởng pháp trị, mà ông còn để lại cho đời sau tấm gương về tính thẳng thắn, nghiêm túc trong việc thi hành luật. Đối với ông, luật pháp không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, bất cứ ai, dù là đối tượng nào, ở vị trí nào đi chăng nữa, nếu vi phạm lụât pháp đều bị xử lý theo đúng quốc luật đã ban hành. Nặng hay nhẹ tuỳ thuộc vào hành vi vi phạm luật của người đó.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tôn lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Trần Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy"... (tr.478). Chính vì vậy, có người khóc với vua rằng: “Bệ hạ trẻ thơ mà Thủ Độ quyền hơn cả vua, đối với xã tắc sẽ ra sao?”. Vua lập tức đến gặp Trần Thủ Độ, mang theo cả người hặc tội theo. Tuy nhiên, thật bất ngờ, Trần Thủ Độ đem tiền lụa thưởng cho kẻ dám hặc tội ông và công nhận người này nói đúng.

Tài năng của ông còn được các sử gia chép lại như sau: "khi vua Trần Thái tông muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc làm tướng, Thủ Độ nói: "An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, nếu cho là thần hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc" vua bèn thôi. Phải chăng, Trần Thủ Độ đã sớm nhìn ra tính cách hai mặt của anh trai mình? Sự thật sau này An Quốc đã cùng với vợ (tương truyền là một công chúa nhà Lý) nổi loạn chống lại nhà Trần ở Quắc Hương, Vụ Bản, Nam Định. Cuộc nổi loạn đã bị chính Trần Thủ Độ dẹp tan. Phải khẳng định rằng ông là người có bản lĩnh chính trị và cá tính đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Ông làm việc gì cũng dứt khoát, xử lý quyết đoán theo ý chí của mình, ít để cho người khác sai khiến.

Trần Thủ Độ là người biết rõ An Sinh Vương Trần Liễu định làm phản và định chém vị này. Nhưng ông cũng là người dù có thực quyền trong tay nhưng vẫn đồng ý với vua Trần Thái Tông tin dùng Trần Quốc Tuấn. Trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Quốc Tuấn là tướng chỉ huy lực lượng giữ biên ải; để rồi ở hai cuộc kháng chiến sau giữ chức tổng chỉ huy quân đội. Điều này chứng tỏ, Trần Thủ Độ không bị các định kiến chi phối, nhìn nhận sự việc rõ ràng, công minh.


Ảnh: Ban Quản lý di tích Hưng Yên

Chuyện khác: Vợ của Trần Thủ Độ là Linh Từ quốc mẫu khi đi qua chỗ thềm cấm bị người quân hiệu ngăn không cho đi. Quốc mẫu về khóc và mách với Trần Thủ Độ, vị thái sư cho người bắt người quân hiệu đến và khen: “Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa” và lấy vàng lụa thưởng cho về. Chuyện nữa: Quốc mẫu xin cho một người làm câu đương. Đây là chức rất nhỏ, chỉ là người chuyên bắt bớ, áp giải trong làng. Chức nhỏ như vậy mà phải cậy nhờ Quốc mẫu xin thái sư. Sách viết: “Trần Thủ Độ gật đầu và biên lấy họ tên, quê quán của người ấy. Khi xét đến xã ấy, hỏi rằng tên ấy đâu. Người ấy mừng chạy đến. Thủ Độ nói: Người vì có công chúa xin cho được làm câu đương, không ví với người làm câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt với người khác. Người ấy kêu van xin thôi, hồi lâu mới tha cho”. Sách còn viết, từ đấy không ai dám đến nhà thăm riêng của thái sư Trần Thủ Độ hòng lo lót, xin vợ ông giúp đỡ nữa. Những chuyện về cách xử lý công việc phân minh của Trần Thủ Độ được sách sử ghi lại. Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét: “Thủ Độ tuy làm tể tướng mà phàm công việc không việc gì là không để ý. Vì thế mà giúp nên nghiệp vương”.

Linh Từ quốc mẫu, vợ Trần Thủ Độ có lần ngồi kiệu đi qua thềm cấm, bị quân hiệu ngăn lại, về dinh khóc bảo Thủ Độ: “Mụ này làm vợ ông, mà bị bọn quân hiệu khinh nhờn đến thế". Thủ Độ tức giận, sai đi bắt. Người quân hiệu ấy nghĩ rằng mình chắc phải chết. Khi đến nơi, Thủ Độ vặn hỏi trước mặt, người quân hiệu ấy cứ theo sự thực trả lời. Thủ Độ nói: "Ngươi ở chức thấp mà giữ được luật pháp, ta còn trách gì nữa". Lấy vàng lụa thưởng cho rồi cho về.

Thủ Độ có lần duyệt định số hộ khẩu, vợ ông là bà Linh Từ xin riêng cho một người làm chức nhỏ ở địa phương. Thủ Độ gật đầu, rồi ghi họ tên quê quán của người đó. Khi xét duyệt đến xã ấy, hỏi tên ở đâu, người đó mừng rỡ, Thủ Độ bảo: "Ngươi vì có Công chúa (tức bà Linh Từ) xin cho được làm câu đương (tên của chức vị ở địa phương), không thể ví những câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt với người khác". Người đó kêu van xin thôi mãi mới tha cho. Từ đó không ai dám đến thăm vì việc riêng nữa, v.v...

Năm 1905, tại thôn Thái Bình (Mai Lâm, Đông Anh, Hà Nội), chính tại nơi mà sử chép Trần Thủ Độ đặt bẫy giết hại họ Lý, nhân dân đã dựng một ngôi đình Thái Bình để thờ Lý Chiêu Hoàng ngồi giữa, Trần Cảnh và Trần Thủ Độ ngồi hai bên.Ông Ngô Vũ Hải Hằng, Viện Sử học, cho rằng: “Dưới con mắt của nhân dân, Trần Thủ Độ hoàn toàn khác với những nhận định của các sử quan phong kiến. Nhân dân biết ơn ông đã cứu đất nước thoát khỏi cảnh loạn lạc, và nhờ có tài thao lược, khí phách hiên ngang, tinh thần kiên quyết của ông mà Đại Việt mới thoát khỏi cảnh nô lệ ở nửa sau thế kỷ 13”. Cũng tại chùa Cầu Đông (Số 38B phố Hàng Đường, Hà Nội) thờ Tượng Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung gắn với câu ca dao cổ:

Cầu Đông vẳng tiếng chuông chùa
Trăng soi giá nến gió lùa khói hương
Mặt ngoài có phố Hàng Đường
Hàng Mây Hàng Mã Hàng Buồm Hàng
Thùng
Tượng Phật Thủ Độ Kim Dung
Uy nghi lẫm liệt oai phong Ta Bà
...


THẠC SĨ PHÙNG QUANG TRUNG
Chủ tịch Hội Đồng Thẩm định 
Viện Nghiên cứu Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam
Nguyên Trưởng Phòng Văn học thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch