(Thứ bảy, 02/09/2023, 10:23 GMT+7)
Hình tượng chiếc lá trở đi trở lại trong nhạc, trong thơ và trong họa của Văn Cao như ám ảnh về sự sống và thân phận. Mỗi “mùa thay lá” là một “mùa cảm xúc”. Đời Văn Cao trải qua những thăng trầm, tư duy nghệ thuật của ông cũng chuyển động qua nhiều ngã rẽ, nhiều lĩnh vực với những bước ngoặt trong sáng tạo để lại thành tựu to lớn. Ông trở thành một tượng đài nghệ thuật thế kỷ 20.
 
Những sáng tác của ông như kết tụ hồn thiêng dân tộc và hùng khí một thời đại nhiều vinh quang và bão táp. Đúng như họa sĩ Tạ Tỵ, một người bạn cùng thời với ông đã nói về ông: “Văn Cao nhập cuộc không phải bằng tài năng đơn độc mà bằng một thác lũ nghệ thuật… Ở Văn Cao, mỗi lời thơ là một hạt ngọc, mỗi tiếng nhạc là một sợi tơ, mỗi màu sắc là một vùng hào quang diễm lệ…”
 
Văn Cao! Một dáng người nhỏ nhắn. Mái tóc bạc buông xõa. Lưng hơi còng. Ngồi lặng trên tấm phản hẹp trong căn phòng chật chội, tay cầm chén rượu, hoặc im lặng, hoặc nói những lời thủ thỉ… Hình ảnh ấy còn in hằn trong tâm trí những người đã đến với ông những năm bảy tám mươi của thế kỷ trước. Thường ít xê dịch khỏi ngôi nhà của mình, thỉnh thoảng Văn Cao chống gậy bước chậm dọc con phố cũ mùa lá rụng, mắt ưu tư, hồn nhớ lại những ước mơ, những khát mong ngày cũ. Ông nói, cuộc sống như những giấc mơ. Hết giấc mơ này lại đến giấc mơ khác. Những giấc mơ ấy, trong không gian ngưng đọng của tuổi xế chiều đưa ông về với tháng ngày xưa đã mất, với những kỷ niệm, ước mơ xa xăm và khát vọng thời tuổi trẻ.


Nhà thơ Văn Cao (1923-1995)
 
Văn Cao sinh ra ở Hải Phòng trong một gia đình công chức. Cha của Văn Cao là đốc công nhà máy nước Hải Phòng. Thuở nhỏ, ông hoc ở trường tiểu học Bonnal, sau lên học trung học tại trường dòng Saint Josef, đó là nơi ông bắt đầu học âm nhạc. Năm 1938, khi mới 15 tuổi, vì gia đình sa sút, Văn Cao bỏ học sau khi kết thúc năm thứ hai bậc thành chung. Qua những tác phẩm còn lại thì 16 tuổi ông đã làm thơ, viết nhạc và giành được những thành công đầu tiên. Tuy nhiên, theo nhà thơ Văn Thao, con trai ông, thì Văn Cao làm thơ lúc chỉ mới 12, 13 tuổi. Văn Cao đến với thơ trước khi đến với nhạc, họa và thơ cũng là cõi riêng ông thổ lộ những suy tư thăm thẳm về cuộc đời mình, những chiêm nghiệm trước hiện thực ngặt nghèo mấy mươi năm thăng trầm của một thế kỷ đầy bão táp.
 
Nhà thơ Văn Thao cho biết, hồi còn học ở trường Saint Josef,  Hải Phòng, Văn Cao tham gia làm một tờ báo cùng các bạn trong lớp. Lúc ấy, ông đã tự tay trình bày báo và biên tập thơ của bạn hữu đăng lên. Văn Cao cũng tham gia hướng đạo sinh, trở thành đại biểu của tổ chức này được mời đi dự hôi nghị toàn Đông Dương tổ chức ở Huế. Sau khi bố ông mất, chị gái ông lấy chồng trong Nam ra chịu tang cha, Văn Cao có thời kỳ theo chị vào Sài Gòn kiếm sống nhưng do có nhiều khó khăn, ông không muốn phiền đến gia đình anh chị nên trở lại miền Bắc. Khoảng cuối năm 1943, đầu 1944, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội học thêm. Những năm lưu lạc ấy đã giúp Văn Cao lăn lộn trong giông tố cuộc đời và hiểu thêm chuyện đời, chuyện thế sự. Nhưng rồi, như một tất yếu, hầu hết những nghệ sỹ lớn hồi đó đều tham gia Việt Minh, Văn Cao cũng thế. Ông được ông Vũ Quý giác ngộ và gợi ý ông dùng tài năng của mình phục vụ cho cách mạng. Từ đây, ông trở thành một nghệ sĩ lớn của cách mạng với hoạt động sôi nổi. Lúc tham gia vào một đội biệt động của Việt Minh tại Hà Nội, khi theo lệnh của tổ chức lên hoạt động ở Lào Cai, Vĩnh Yên và nhiều nơi khác của Việt Bắc với nhiều nhiệm vụ quan trọng, rồi sau đó trở thành lãnh đạo của văn nghệ kháng chiến cho đến khi trở về Hà Nội sau năm 1954.
 
Văn Cao là một con người đa tài, đa diện. Mơ mộng, hoài cổ, đắm chìm trong thế giới thuần khiết của mộng ước nhưng cũng có lúc hòa vào dòng chảy cuồn cuộn của lịch sử với khí thế hào hùng của cách mạng, của chiến tranh. Khiêm nhường giản dị, nhiều lúc nhẫn nhịn đến tận cùng nhưng cũng có lúc bôn ba trong những hiểm nguy sóng gió. Trầm lắng, kiệm lời nhưng cũng có khi vút cao lên như vượt qua mọi giới hạn, ào ạt như biển động. Từ hiện thực vào hư ảo, từ trần trụi đến tinh khiết, từ sâu lắng trầm hùng đến thanh cao réo rắt… Tất cả đó, tạo thành điệu tâm hồn ông, hòa quyện, phát lộ trong thơ, trong nhạc và trong hội họa.
 
***
 
 “Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng” - Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có lần đã phải thốt lên như thế.
 
Không ai có thể tưởng tượng được, một người thanh niên mảnh mai, thư sinh lãng tử như Văn Cao lại có một sức sáng tạo mãnh liệt đến nhường ấy. Chỉ trong vòng chưa đến mười năm, từ ca khúc đầu tiên Suối mơ 1939 đến khi ra đời Trường ca sông Lô 1948, Văn Cao đã làm nên một sự nghiệp to lớn với những tác phẩm bất hủ đánh dấu bước chuyển biến chưa từng có của nền âm nhạc Việt Nam.
 
Văn Cao xuất hiện khi nền tân nhạc nước nhà vẫn còn trong giai đoạn hình thành. Cũng như nhiều nhạc sĩ cùng thời, ông ảnh hưởng sâu sắc âm nhạc phương Tây, đầu tiên là các bài thánh ca trong các giáo đường, và làm quen với nhạc nhà binh, với những đội kèn đồng, dần dần tiếp cận với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ điển châu Âu.  Văn Cao bắt đầu học âm nhạc là ở trường Trung học Saint-Joseph của các sư huynh La San tại Hải Phòng. Sau đó, ông gia nhập nhóm Đồng Vọng do nhạc sĩ Hoàng Quý thành lập quy tụ nhiều nhạc sĩ tài năng như Phạm Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Canh Thân, Tô Vũ…
 
Từ năm 16 tuổi, Văn Cao đã có ca khúc đầu tay là Buồn tàn thu được đồng nghiệp đánh giá cao và được người nghe ưa chuộng. Tiếp đó Văn Cao đã cắm những cái mốc trong âm nhạc với Suối mơ, Thiên Thai, Cung đàn xưa, Bến xuân, Thu cô liêu… Đó là những nhạc phẩm trở thành đỉnh cao của nền tân nhạc nước nhà, được công chúng yêu thích và có sức sống lâu bền.
 
Xu hướng lãng mạn ở Văn Cao thể hiện sinh động qua việc tạo nên một không gian tinh khiết, một cõi vắng xa hoặc sa vào kỷ niệm với những lưu luyến, nhớ tiếc về tình yêu dang dở, chia ly. Âm điệu lúc dịu êm tha thiết, ngân vọng, lúc lắng sâu vào những nỗi niềm u uẩn.
 
Đêm mùa thu chết
Ɲghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng
Em ngồi đan áo
Lòng buồn vương vấn
Em thương nhớ chàng…
(Buồn tàn thu)
 
Âm ba thoáng rung cánh đào rơi
Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời
Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền nan 
Quê hương dần xa lấp núi ngàn
Bâng khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền
Ai hát trên bờ Đào Nguyên…
(Thiên Thai)
 
Điều đặc biệt ở Văn Cao mà có lẽ không nhạc sĩ đương thời nào có được là ở chỗ từ thiên hướng lãng mạn, chỉ trong một thời gian ngắn, ông chuyển sang hùng ca. Điệu tâm hồn ông đã khác. Xa dần với những những bản tình ca, ông bắt đầu viết về lịch sử, về dân tộc, về cái khí thế hào hùng của thời đại. Những tác phẩm gây ấn tượng như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca đã đưa Văn Cao đến với Việt Minh. Năm 1944, khi mới 21 tuổi tại tại căn gác nhỏ số nhà 171 phố Mông-gơ-răng (nay là 45 phố Nguyễn Thượng Hiền) ông đã viết Tiến quân ca, để rồi sau đó bài hát lần đầu tiên được in trên báo Độc Lập vào tháng 11/1944 và được Hồ Chủ tịch và quốc dân đại hội Tân Trào chọn làm quốc ca của nước Việt Nam vào tháng 8 năm 1945.
 
Trong ký ức của mình, Văn Cao không thể nào quên được hình ảnh ngày 18 tháng 8 năm 1945, trong một cuộc mít tinh tại Nhà hát Lớn. Thật bất ngờ khi  trên bao lơn của Nhà hát, một lá cờ đỏ sao vàng rất lớn được thả xuống, một thành viên trong Đội danh dự Việt Minh sau khi tung cờ, nhảy xuống cầm micro hát bài Tiến quân ca. Rồi ngay sau đó, cả một biển người cùng cất tiếng hát. Lời bài hát vang lên như sấm rền giữa đoàn người rùng rùng chuyển động. Văn Cao gọi giờ khắc ấy là giờ khắc Tiến quân ca thuộc về nhân dân và nước mắt ông trào ra vì cảm động.
 
Đoàn quân Việt Nam đi
Chung lòng cứu quốc
Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa
Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước
Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca…
 
Từ đó, Quốc ca đã trở thành khúc hát thiêng liêng, in hằn vào tâm tư của hàng triệu con người Việt Nam suốt gần 80 với biết bao oanh liệt, đau thương và hào hùng của dân tộc.
 
Trong những năm sau cách mạng, Văn Cao tiếp tục mạch hùng ca và đã sáng tạo nên những nhạc phẩm được xếp vào hàng kiệt tác.
 
Trường ca sông Lô mở đầu bằng hình ảnh một dòng sông trong không gian rộng lớn, huyền ảo và gợi dần vẻ điêu tàn mang gương mặt của chiến tranh.
 
Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u.
Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu
Sông Lô, sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang
Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu nước sông Lô xưa.
 
Bài hát dần tái hiện niềm vui chiến thắng của nhân dân Việt Bắc và hình ảnh đời sống muôn mặt trong sản xuất, chiến đấu của nhân dân ta. Có thể nói, Trường ca sông Lô là một tổng phổ phức hợp, vô cùng phong phú cả về nội dung và hình thức. Tất cả hòa quyện trong những cung bậc tinh tế, sinh động vừa hùng tráng, vừa trữ tình sâu lắng. Nhạc sĩ Phạm Duy đã đánh giá rất cao Trường ca Sông Lô. Ông cho rằng: “Về hình thức, bài hát chẳng thua gì bất cứ một tuyệt phẩm nào của loại nhạc cổ điển Tây Phương. Nét nhạc của trường ca rất mạnh khỏe, rất tươi sáng. Nhịp điệu vô cùng phong phú với những chuyển đoạn rất tài tình. Bài này đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc.” Ông nhấn mạnh: “Nếu Thiên Thai chỉ nằm trong một giọng Re (mineure và majeure) và Trương Chi chỉ chuyển nhịp, chuyển điệu trong hai giọng Re và Sol… thì Trường ca sông Lô có tới sáu lần chuyển âm (modulations) cũng như chuyển tiết tấu (changing rythmes). Trường ca sông Lô là bản hát dài đầu tiên của chúng ta là một tuyệt phẩm mà những người đi sau Văn Cao (như tôi) đã học hỏi được rất nhiều ở ông để tiếp tục làm giầu cho âm nhạc Việt Nam.”
 
Sự nghiệp Văn Cao còn ghi dấu với những ca khúc nổi tiếng Ca ngợi Hồ Chủ tịch được đánh giá là bài hát hay nhất về Bác Hồ, bài Làng tôi, Ngày mùa nói tới vẻ đẹp của nông thôn Việt Nam trong chiến tranh và niềm vui lao động. Hay bài Tiến về Hà Nội với âm nhạc hùng tráng, rộn vang gợi tả niềm vui chiến thắng ngày trở về của quân ta. Điều đặc biệt là bài hát này đã chứng tỏ khả năng dự báo của Văn Cao. Được viết từ năm 1948 và sáu năm sau thì những điều mơ ước trong bài hát đã thành sự thật. Có thể nói, đây là bài hát hay nhất về niềm vui chiến thắng của dân tộc và suốt mấy chục năm nay nó vẫn luôn cất lên trong những đêm nhạc hoành tráng in dấu ấn một thế kỷ hào hùng.
 
Trong khoảng 20 năm từ 1956 đến 1976 Văn Cao ít viết bài hát. Cuộc sống của ông giai đoạn này cũng có nhiều khó khăn, bất trắc. Nhưng trong cái im lặng tưởng chừng vô tận ấy, từ tâm khảm Văn Cao đã dần hun đúc nên một khát vọng, một tư tưởng lớn lao để rồi viết nên một kiệt tác bất tử Mùa xuân đầu tiên.
 
Chiến tranh qua rồi sẽ đến hòa bình. Đó là quy luật tất yếu của lịch sử. Nhưng đó cũng là niềm mong ước lớn lao, thẳm sâu nhất của một dân tộc suốt ba mươi năm chìm trong chiến tranh máu lửa. Bài hát này của Văn Cao xuất hiện trong khoảnh khắc đặc biệt đó, khoảnh khắc mùa xuân hòa bình đầu tiên sau chiến tranh và ca lên cái giai điệu thanh bình, thiết tha mà sâu lắng:
 
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường mùa vui nay đã về
mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một trưa nắng cho bao tâm hồn…
 
Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên
Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm
Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người.
 
Nói về kiệt tác này của nhạc sĩ Văn Cao, nhà phê bình Đỗ Anh Vũ cho rằng: “Mùa xuân đầu tiên là một ca khúc được viết theo điệu Valse, một điệu thức trước đó nhiều lần được Văn Cao sử dụng qua các nhạc phẩm như Cung đàn xưa hay Ngày mùa. Nhưng với bản Valse mùa xuân này, tưởng như đây là một điệu luân vũ dặt dìu bất tận trong niềm hạnh phúc khôn nguôi, khi những giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống nghẹn ngào trong cả người nghe, người hát và chính người sáng tác.”
 
Mùa xuân đầu tiên được xem như kiệt tác cuối cùng khép lại cuộc đời sáng tác âm nhạc đầy thành tựu của Văn Cao. Trong cảm thức của người Việt Nam, thế giới âm nhạc của Văn Cao mãnh liệt, hào hùng có sức cổ vũ lớn lao toàn dân tộc trong một thời kỳ lịch sử đầy máu lửa, nhưng đó cũng là thế giới của những điều bình thường, giản dị mà sâu lắng, nơi những rung cảm của trái tim cất lên thành giai điệu ngọt ngào tha thiết của nó, nơi những khát vọng ngàn đời của cả một dân tộc dồn tụ lại.
 
***
 
Nếu như về âm nhạc Văn Cao đã được khẳng định ở vị trí số một Việt Nam trong thế kỷ 20 thì các lĩnh vực sáng tác khác là họa và đặc biệt là thơ của ông dường như chưa có sự nghiên cứu thấu đáo.
 
Giờ nhìn lại sự nghiệp thơ Văn Cao, ta không khỏi ngạc nhiên, khi chỉ trong hơn 10 năm kể từ khi có tác phẩm thơ đầu tiên, từ một nhà lãng mạn cuối mùa, ông đã làm một hành trình dài lao thẳng vào hiện đại như một cánh chim xuyên qua bão táp của những thành kiến trong thời đại mình để trở thành một nhà tiên phong, mở ra một cánh cửa mới cho thơ hiện đại Việt Nam, mà cho đến nay chúng ta chưa đi hết cung đường mà ông đã vạch ra.
 
Ngọn lửa thơ của Văn Cao sung sức và bùng cháy nhất chính ở thời điểm ông viết trường ca Những người trên cửa biển năm 1956. Cảm xúc sôi trào. Ý tứ sắc sảo. Câu thơ hoạt. Hình tượng thơ gây nhiều ám ảnh. Từ thời điểm này về trước, Văn Cao thiên về cảm xúc, cảm giác và những hình ảnh lãng mạn. Sau thời điểm này, Văn Cao chuyển dần sang ẩn dụ, tượng trưng với những hình ảnh biểu tượng hết sức sâu sắc và những suy tư mang nhiều cay đắng.
 
Cuối những năm 30, đầu những năm 40 thế kỷ trước, phong trào thơ mới bắt đầu cạn dần dòng chảy của nó. Những sáng tác đầu tiên của Văn Cao (bài thơ đầu tiên giữ lại được sáng tác năm1939) chịu ảnh hưởng của tư duy thơ mới, nhưng lối dùng chữ vẫn còn nặng về hán việt, nhạc thơ còn chưa thật nhuần nhuyễn. Nhưng, chỉ khoảng một năm sau, khi ông viết Một đêm đàn lạnh trên sông Huế (1940) thì độ điêu luyện, mượt mà đã không kém các bậc đàn anh trong thơ mới trước đó. Và cũng chỉ mấy năm sau, ông viết Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc thì không chỉ độ điêu luyện đã lên đến đỉnh, mà còn cho thấy cách nhìn, cách miêu tả hiện thực sắc sảo, trực diện trước thảm họa khủng khiếp của dân tộc ta trong nạn đói năm 1945. Đó là thời điểm Văn Cao đã hoàn toàn vượt qua ảnh hưởng của thơ mới và nghiêng theo chủ nghĩa hiện thực. Nhưng rồi sau đó, Văn Cao chủ yếu chuyển sang nhạc, liên tiếp giành được những thành tựu lớn trong âm nhạc, còn đường thơ thì dần trở nên thưa thớt.
 
Nửa cuối thập niên 40 của thế kỷ trước, Văn Cao có vài bài thơ, mà đáng chú ý phải nói đến Ngoại ô mùa thu năm 1946. Sự biểu đạt về ngôn từ ở đây đã thoát thai ra khỏi lối ước lệ cổ điển và cập nhật những từ ngữ mới mang hơi thở đời sống. Cũng phải nói rằng, chính cuộc sống chiến đấu và lao động mới sau cách mạng Tháng 8 đã giúp nhào nặn lại ngôn ngữ thơ của Văn Cao và đưa ông lên tuyền đầu với những ước mơ và khát vọng sáng tạo mới cho thơ.
 
Trở lại với thời điểm bước ngoặt trong thơ Văn Cao, chính là khi ông viết trường ca Những người trên cửa biển. Ở trường ca này, Văn Cao lấy Hải Phòng làm một hoán dụ như “Việt Nam thu nhỏ”. Hải Phòng hiện lên trong thác lũ của chiến tranh và trong mơ ước nhào nặn lại hình hài của mình vươn đến cuộc sống mới. Cũng chính ở đây, bên cạnh những thành công và mơ ước, Văn Cao đã không ngại ngần đề cập đến những hiểm họa khó trừ trong hàng ngũ những người cách mạng:
 
Kẻ thù của chúng ta xuất hiện
Những con rồng đất khi đỏ khi xanh
Lẫn trong hàng ngũ
Những con bói cá đậu trên những dây buồm
Đang đo mực nước
Những con bạch tuộc
Bao tay chân cố dìm một con người
 
Đất nước đang lên da lên thịt
Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày
Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải
Đã thấy loài sâu nằm dài trong cuống…
 
Những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc
Những tên muốn cây to che cớm mầm non.
Và ông cũng đã thấy những bi kịch lặng thầm:
“Không có tiếng vỡ trong không gian
Sao có tiếng vỡ trong lòng tiếng vang âm rên rỉ”.
 
Bản lĩnh Văn Cao, sự trung thực của ngòi bút, tính dự báo sâu sắc bắt đầu được thể hiện mãnh liệt. Và hẳn nhiên, điều này làm cho không ít người có quan điểm hẹp hòi, thích che đậy lấy làm khó chịu.
 
Cũng tại thời điểm này, Văn Cao viết bài Mấy ý nghĩ thơ như một tuyên ngôn về thơ, đặt ra những vấn đề lớn cho thơ hiện đại. Văn Cao đặc biệt nhấn mạnh đến tính tư tưởng của thơ: “Chúng ta đã qua một thời kỳ dài thiên về cảm xúc và một thời kỳ cảm giác, cái thời kỳ thiên về tư tưởng có phải đang bắt đầu không?”
 
Tuyên ngôn rồi, Văn Cao bắt đầu có những đột phá cả trong khai thác đề tài và nghệ thuật biểu hiện.
 
Bài Anh có nghe thấy không là một cách đặt vấn đề về nội dung mới cho thơ. Trong lời đề từ Văn Cao ghi “gửi một nhà thơ”. Và ông viết:
 
Chỗ nào cũng có tiếng
Chưa nói lên
 
Văn Cao không ngại ngần chỉ ra:
 
Chung quanh còn những người khôn ngoan
Không có mồm
Mắt không bao giờ nhìn thẳng
Những con mèo ngủ yên trên ghế
Trong một cuộc dọn nhà
Những con sên chưa dám ló đầu ra
Những dây leo càng ngày càng tốt lá
 
Kẻ thù lớn nhất của cách mạng chính là những kẻ xảo trá, cơ hội lẫn vào hàng ngũ những người cách mạng để phá hoại nó. Hiện thực mà Văn Cao cảnh báo, tiếc thay đã không được khắc phục, không được chỉnh đốn kịp thời để sau này trở thành một hiểm họa lớn.
 
Trong cái thời sung sức ấy, Văn Cao cũng chú trọng đến cách tân hình thức. Điều đáng nói là Văn Cao đề cao sự phù hợp giữa nội dung và hình thức thơ. Trong bài Gửi những nhà thơ, ông viết:
 
Hãy xếp lại thang âm
A ba ca
Da đa la ma
Ôi vần thơ nhạc điệu
Trong trúc trắc nặng nề ngột ngạt
Trong chua chát ngậm ngùi hàng ngày quằn quại
Chết mòn chết mòn chết mòn
 
Ở một chỗ khác, ông cũng ví cánh thơ du dương như “chiếc máy bay của người đầu tiên tập lái”. Ông cho rằng, nhà thơ “hãy giữ lại thang âm và đôi cánh/ Trong cuộc đời cao tiếng hát du dương”. Tiếc thay, nửa cuối của thập niên 50 của thế kỷ trước, với những oan trái nặng nề, và cách xử lý vụ Nhân văn Giải phẩm có phần sai lầm đã khiến cuộc đời nhiều văn nhân rơi vào bi kịch. Văn Cao, một nghệ sỹ với tài năng sáng chói cũng bị người ta cho là có liên quan đến vụ này. Từ đó, tài năng của ông đã không còn nhiều cơ hội được thể hiện trước công chúng.
 
Từ những năm 60 của thế kỷ trước, cuộc sống của Văn Cao trở nên nặng nề, cô độc và thậm chí nơm nớp vì một sự đe dọa vô hình. Ông gần như không làm nhạc, phải vẽ minh họa cho báo hoặc vẽ bìa sách để kiếm sống và thường phải chịu cảnh đói nghèo. Ông cũng ít làm thơ. Hầu hết thơ ông viết không in được, chép trong sổ tay, thỉnh thoảng mới được đọc lên chia sẻ với bạn hữu trong những cuộc rượu.
 
Mãi mấy chục năm sau, khi đất nước đã mở cửa, đổi mới thì thơ Văn Cao mới được in lại trong một tập . Sau khi Văn Cao mất, những tuyển thơ của ông mới dần dần được in nhưng vẫn còn một số bài thơ gai góc đến giờ vẫn chưa xuất hiện chính thức trong tập nào.
 
Càng về sau, Văn Cao làm thơ như là một cuộc độc thoại với chính mình. Trước đây có lần ông muốn hét to lên, cảnh báo về những hiện trạng nguy hiểm đang dần dần lộ diện trong đời sống, nhưng chẳng ai nghe thấy, tiếng thét của ông tựa như gặp một triền núi dựng đứng chắn lại:
 
Khi tôi hú lên thật to
Không nghe tiếng tôi nữa
Như viên đá rơi vào im lặng
Những ngọn núi dựng lên đen trũi
Bờ một cái vực khổng lồ
Nơi cả mặt trời mặt trăng
Thường lặn xuống không tiếng động.
(Lòng núi)
 
 Đến lúc chìm trong cô độc, ưu tư, Văn Cao chua xót nhận ra:
 
Bỗng nhiên
Bóng người ấy che mất
Nửa mặt của tôi
(Nguyệt thực)
 
Dù sao, thơ Văn Cao vẫn tiến những bước dài trong sự chiêm nghiệm về thân phận con người, về những nghịch lý của thời đại và trong nghệ thuật biểu hiện, ông đã chọn lối ẩn dụ, tượng trưng như một phương thức biểu đạt chính, tạo ra những bài thơ trùng điệp các tầng ngữ nghĩa, gợi liên tưởng và ngẫm suy không dứt.
 
“Sự thất bại thường gặp trong một bài thơ là khép lại: Khép  tất cả sự muốn nghĩ và muốn nói”. Văn Cao đã từng quan niệm như vậy, và ông đã thành công khi biến mỗi bài thơ của mình thành một tác nhân kích thích suy nghĩ của độc giả. Có thể coi mỗi bài thơ như một câu hỏi nhức buốt về sự sống, hoặc một tấm gương để độc giả soi vào và tự ngẫm suy về chính mình, về thời đại mình. Bài thơ Văn Cao vì thế không phải là một văn bản chết, cứng đờ trên giấy, nó lung linh, sống động và biến hóa tùy theo sức cảm và nghĩ của độc giả. Đó chính là sự hấp dẫn đặc biệt của thơ Văn Cao, thâm trầm, sâu sắc và liên tục gợi mở. Tính hiện đại của Văn Cao biểu lộ rõ nét ở điểm này. Nó vượt thoát khỏi dòng thơ tuyên truyền đương thời. Nó xác lập một cá tính riêng, làm phong phú thêm cho Thơ Việt và mở đường cho những dòng chảy mới của thơ sau này.
 
Bài Năm buổi sáng không có trong sự thật là một thành công quan trọng trong nỗ lực hiện đại hóa thơ của Văn Cao. Bài thơ mở ra cái thế giới của tưởng tượng, của giả tưởng. Buổi sáng thứ nhất, khi tỉnh dậy bỗng “cả phố biến đâu mất” “Mặt đất đỏ màu gạch nung/ như miệng  quả núi lửa”. Buổi sáng thứ hai tỉnh dậy “không nghe tiếng chim hót”, không nghe tiếng chân đi, “không ai nhìn miệng tôi gào thét”. Tất cả chỉ có im lặng. Và nhà thơ cảm thấy “Hình như nơi đây bị đày trong im lặng”. Buổi sáng thứ ba, nhà thơ thấy “không phải mình thức dậy/ một người nào đó trong tôi đang thở”, thế rồi từ đó, bao nhiêu điều khủng khiếp đã diễn ra. “Từ khi ấy, chúng tôi hai người suy nghĩ/ Hai kẻ thù nhau/Hai thái cực tâm hồn/ Hai người ấy trong một người chịu đựng/ mưu hại lẫn nhau”. Buổi sáng thứ tư, cả phố phường như mở hội. “Mọi con người đeo mặt nạ đi chơi” nhưng nhà thơ lại nhìn thấy “Nước mắt mồ hôi / chảy ra trên từng mặt nạ”. Bài thơ kết lại bằng buổi sáng thứ năm ấm áp. Trong căn phòng trong suốt thủy tinh, “Em ở đây với anh”  “Da thịt em cho anh sưởi” “Chúng ta đi vào bí mật của mùa xuân”. Năm buổi sáng là năm tình huống, năm cung bậc của cảm xúc, suy tưởng, tưởng tượng. Dù nó được vẽ nên mang màu sắc giả tưởng nhưng lại không xa lạ với hiện thực. Bài thơ khép lại mà sức gợi của nó không dứt, tựa như một chất xúc tác nhào nặn lại những suy nghĩ của độc giả.
 
Nếu như Năm buổi sáng không có trong sự thật hướng ngoại, mô tả những cảnh ngộ chung của nhiều người, hoặc khái quát về cái chung, thì Ba biến khúc tuổi sáu lăm là một lối thơ nghiêng về ẩn dụ nói lên cảnh ngộ của một con người. Biến khúc thứ nhất, kể rằng, “một người cho tôi con dao găm” và tác giả vô tình ném con dao qua cửa sổ trong đêm. Bỗng có tiếng ngã ngoài sân, “một người trúng tim đã chết”. Tác giả thanh minh: “Tôi không hề biết người ấy/ Tôi là kẻ không muốn giết người/ Chỉ biết bóng tối/ mà tôi đã ném dao”. Biến khúc thứ 2, kể về một oan khiên: “Bỗng nhiên mọi người nhìn tôi/ một ai đó kêu lên thằng ăn cắp”. Thế rồi, khi chạy hết cả cuộc đời, sắp gục xuống, “tỉnh dậy mồ hôi chảy/ tôi lại thấy tôi là người chưa phạm tội”. Biến khúc thứ ba, kể: “Tôi rơi vào mạng nhện/ mạng nhện cuốn lấy tôi/ không còn cách gì gỡ được”. Đây  là một bài thơ đau đớn, nói về sự vô tình nghiệt ngã, sự  xô đẩy của thời thế tạo nên số phận oan nghiệt của một con người. Dù tất cả hình ảnh trong bài thơ đều mang tính biểu trưng, nhưng hầu như những mâu thuẫn, những kịch tích lại khá rõ ràng và có thể hiểu được khá rõ.
 
Trừ một số bài thơ dài, mà trường độ cảm xúc và tính khái quát không thua kém những trường ca, về cơ bản, thời kỳ những năm 60, 70 của thế kỷ trước, thơ Văn Cao trở nên ngắn gọn, cô đúc. Ông tìm sự liên kết trong ý tứ, hình ảnh, trong nhạc điệu, tức là sự liên kết từ bên trong chứ ít khi sử dụng những vần điệu vang vọng. Hình ảnh trong thơ ông thường biến nghĩa, cấu trúc câu cũng linh hoạt khơi gợi sự ngẫm ngợi. Hầu hết thơ ông quãng sau nghiêng về nghĩa bóng, mỗi bài thơ đặt ra những thách thức bí ẩn khiến người đọc phải giải mã điều thực sự nhà thơ muốn nói phía sau mỗi câu từ.
 
Dù không sáng tác nhiều thơ (theo số liệu công bố gần đây 63 bài thơ và 2 trường ca), Văn Cao cũng đã ôm chứa trong ông bước dịch chuyển lớn lao mang dấu ấn của hơn nửa thế kỷ tìm đường của thơ Việt. Từ một nhà lãng mạn, Văn Cao đã nỗ lực để trở thành một nhà thơ hiện thực, từ một nhà hiện thực, Văn Cao đã tiến thêm một bước vào lãnh địa của thơ tượng trưng. Trong thơ ông người ta tìm thấy cả dấu ấn thân phận nhà thơ, lẫn nỗi cay đắng của một lịch sử đầy gấp khúc.
 
***
 
Sẽ là thiếu sót nếu không nói đến những cống hiến của Văn Cao trong lĩnh vực hội họa. Nhiều nghệ sĩ cùng thời với Văn Cao đều ghi nhận rằng, Văn Cao có nhiều bức tranh được giới mĩ thuật đánh giá cao. Đấy là những bức vẽ như có thần. Đôi khi chỉ bằng vài nét bút đã có thể gợi lên cái hồn của cảnh vật hoặc tâm tư của con người. Văn Cao vẽ nhiều chất liệu, nhưng sơn dầu là chính. Nhà văn Đỗ Chu cho biết, thời đất nước còn nghèo, Văn Cao sống chủ yếu bằng việc vẽ tranh và minh họa bìa sách. Văn Cao “Vẽ đến đâu người ta đến rước đến đấy… Có bức còn bày trong bảo tàng Mỹ thuật, có bức trong nhà ai đó quanh Hà Nội và có bức đã bay ra nước ngoài. Chỉ trừ có một bức ông vẽ bà Băng (vợ ông) mặc áo dài tìm canhs sen rất nhã là ông không bán mặc dù rất nhiều người nài nỉ đòi mua.”
 
***
 
Là một nghệ sĩ lớn nhưng Văn Cao luôn khiêm nhường và vô cùng bình dị. Ông đã sống như một người bình thường, yêu thương và trân trọng tất cả những gì xung quanh mình. Chính từ những điều bình thường ấy đã tích tụ dần, hình thành trong ông những khát vọng như mang cả tâm tư con người trong một thời đại. Những kiệt tác của ông đã từng được yêu chuộng trong những thập kỷ qua, sẽ còn đồng hành với con người và dân tộc Việt Nam trên những chặng đường mới, trong thế kỷ mới. Văn Cao là trường hợp điển hình về một nghệ sĩ đã đồng hành cùng dân tộc và thời đại mình để bằng tài năng và tâm huyết sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ.
 
Theo THIÊN SƠN / VANVN