(Thứ hai, 22/07/2019, 11:07 GMT+7)
 

 
VỊ TRÍ CỦA VƯƠNG TRIỀU TIỀN LÝ
TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

 

PGS.TS. Nguyễn Minh Tường

(Viện Sử học)

 
          Sách Đại Việt sử ký toàn thư, trong phần Kỷ nhà Tiền Lý chép khái quát về cuộc khởi nghĩa của Lý Bí như sau: “Vua họ Lý, tên húy là Bí, người Thái Bình, phủ Long Hưng. Tổ tiên là người Bắc, cuối đời Tây Hán khổ về việc đánh dẹp, mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì thành người Nam. Vua có tài văn võ, trước làm quan với nhà Lương, gặp loạn, trở về Thái Bình. Bấy giờ bọn thú lệnh tàn bạo hà khắc, Lâm Ấp cướp phá ngoài biên, vua dấy binh đánh đuổi được, xưng là Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên”[1].
          Thời bấy giờ Giao Châu (miền Bắc Bộ của nước ta ngày ấy) ở dưới quyền cai trị của Vũ Lâm hầu Tiêu Tư. Tiêu Tư vốn là tôn thất của nhà Lương[2] là một kẻ tàn bạo, mất lòng dân. Lý Bí nhân lòng oán hận của nhân dân và các hào trưởng người Việt đối với chính quyền thực dân, đã hiệu triệu các bậc anh kiệt các châu lãnh đạo nhân dân nổi dậy. Sử ta chép rằng tù trưởng Chu Diên là Triệu Túc, phục tài đức Lý Bí, đem quân theo trước tiên[3]. Miền đất nước ta bấy giờ gồm các châu: Giao, Hoàng (Bắc Bộ), Ái (Thanh Hóa), Đức, Lợi, Minh (Nghệ Tĩnh).
          Như vậy, cuộc khởi nghĩa của Lý Bí không phải chỉ nổ ra ở Giao Châu (tức miền Bắc Bộ ngày nay). Lý Bí đã liên kết với hào kiệt các châu khác trên miền đất của người Việt, và sau này lên ngôi hoàng đế, Lý Nam Đế đã cố gắng xây dựng một Nhà nước độc lập, tự chủ bao gồm toàn bộ lãnh thổ của người Việt từ Bắc Bộ đến Hà Tĩnh. Cho nên, có thể nói cuộc khởi nghĩa của Lý Bí giữ một vị trí hết sức trọng đại trong tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt.
          Chúng tôi xin phân tích một cách khái quát ý nghĩa và vị trí của việc thành lập vương triều Tiền Lý do vua Lý Nam Đế khai sáng.
          I. Trong thời kỳ Bắc thuộc, cuộc khởi nghĩa Lý Bí thu được thắng lợi vang dội nhất và giành được quyền độc lập, tự chủ lâu dài nhất
          Theo quan niệm của giới sử học ngày nay, thì năm 179 tr. Cn, Triệu Đà sau khi chinh phục nước Âu Lạc, lật đổ triều đình An Dương Vương, sát nhập đất đai Âu Lạc vào phạm vi quốc gia Nam Việt, là mở đầu thời kỳ Bắc thuộc[4]. Và thời kỳ Bắc thuộc kết thúc bằng sự kiện Khúc Thừa Dụ dựng quyền tự chủ vào năm 905. Như vậy, thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc kéo dài tới 1084 năm.
          Trong khoảng thời gian gần 11 thế kỷ ấy, nước ta bị bọn phong kiến phương Bắc đô hộ có hàng chục cuộc nổi dậy, cuộc khởi nghĩa, to có, nhỏ có, nhưng chưa có cuộc khởi nghĩa nào thu được thắng lợi vang dội như cuộc khởi nghĩa Lý Bí. Từ xưa đến nay, không sử gia nào không ca ngợi võ công đánh giặc, cứu nước của Đức vua Lý Nam Đế.
          Sử gia Nguyễn Nghiễm[5] (1708-1776), trong Việt sử bị lãm viết: “Từ khi nước Việt ta thuộc vào Đông Hán (25-220 – TG), trải qua khoảng mấy trăm năm mà chưa có kẻ đắc chí. Tiền [Lý] Nam Đế trỗi dậy nơi đất khách, hăng hái mưu khôi phục đất nước, văn chương thì đã có Tinh Thiều bày mưu kế; võ dũng thì đã có Triệu Túc ra chiến trường, vì thế mà đuổi được Tiêu Tư về phương Bắc, dẹp được Lâm Ấp ở phương Nam, dựng đô, đặt quốc hiệu, khôi phục bờ cõi. Nếu không phải là người văn võ toàn tài, mưu lược, thì chưa dễ đã làm được”[6].
          Sử gia Ngô Thì Sĩ (1726-1780), trong bộ Đại Việt sử ký tiền biên (được ấn hành vào năm 1800 đời Cảnh Thịnh), thì bàn cụ thể và đánh giá cao hơn: “Tiền [Lý] Nam Đế là một hào tộc khởi binh, có Tinh Thiều giúp việc mưu mô, có Triệu Túc chủ việc quân ngũ. Châu quận hưởng ứng, hào kiệt đồng tâm, trục xuất được Tiêu Tư, đánh đuổi được Tử Hùng, lại phá được Lâm Ấp ở Cửu Đức[7]. Uy binh vang dội, thế mạnh dần lên, rồi lên ngôi vua, đặt niên hiệu, đặt tên nước là Vạn Xuân, hiệu vua xưng là Nam Việt. Có nơi triều hội, có tướng võ tướng văn, quy mô dựng nước hoàn chỉnh có thể coi được… Từ sau khi Hai Bà Trưng mất[8], tới đây là 490 năm nội thuộc làm châu phụ biên, một khi vùng lên chống chọi với binh hùng tướng mạnh của Tam Ngô, khiến cho người trong nước có chỗ nương nhờ, quốc thống có nơi hệ thuộc. Ở vào thế rất khó khăn, mà lập được công rất kỳ diệu. Bọn giặc Man do đó hết cơ hội quấy rối, quân phương Bắc vì thế nhụt chí xâm lăng. Cho nên Triệu Việt Vương, Hậu Lý [Nam Đế] cũng được nhờ để dựng nước, quân Lâm Ấp cũng không dám dòm ngó ngoài biên. Hơn 60 năm, công lao của ông không thể mai một được, xứng đáng vào hạng người như Đinh Tiên Hoàng…”[9].
          Học giả Nguyễn Văn Tố (1889-1947), trên tạp chí Tri Tân, trong khoảng từ năm 1932 đến năm 1936, có một số bài liên quan tới Lý Nam Đế như: Nên có ngày kỷ niệm vua Tiền Lý, Có Triệu Quang Phục không?, Có nhà Tiền Lý không?, Lý Nam Đế, v.v… Vào năm 1997, các bài luận văn trên đây của Học giả Nguyễn Văn Tố, được Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam in lại trong bộ sách: Đại Nam dật sử - Sử Ta so với sử Tàu.
          Trong bài Nên có ngày kỷ niệm vua Tiền Lý, Học giả Nguyễn Văn Tố viết: “Nước ta có ba bậc “anh hùng cứu nước” đầu tiên là Đức Đổng Thiên Vương, Hai Bà Trưng và vua Tiền Lý Nam Đế. Đức Đổng Thiên Vương thuộc vào thời kỳ lộ sử, mà chuyện lại thần kỳ, cho nên bộ Khâm định Việt sử không chép đến. Còn Hai Bà Trưng, thì ai là người nước Nam, tất phải biết chuyện. Đến như vua Tiền Lý Nam Đế (Lý Bí, hoặc Lý Bôn 544-548), thì sử nước ta chép riêng ra một “Kỷ”, tức một dòng vua, nhưng lại không có ngày quốc tế! Đổng Thiên Vương thì có hội Gióng… vào mùng tám tháng tư… Trưng Vương có hội “Đền Hai Bà”, vào mùng năm tháng hai, là ngày kỷ niệm chung của cả nước. Duy có vua Tiền Lý thì chỉ có mấy làng ở cửa sông Đáy thờ làm thành hoàng, còn chưa có ngày hội lớn để cho quốc dân nhớ lại công ơn của một vị anh hùng đã đưa đường dẫn lối cho dân ta thoát vòng lao lung…”[10]. Trong bài Lý Nam Đế, Nguyễn Văn Tố còn khẳng định: “Người nước Nam mà làm vua nước Nam, Lý Bí thực là một người xây nền độc lập cho nước Nam muôn nghìn năm sau này”[11].
          Qua những nhận định của các nhà sử học nói trên, ta thấy cuộc khởi nghĩa Lý Bí (542-544), sau khi giành thắng lợi đã dựng nên cả một vương triều: Vương triều Tiền Lý kéo dài tới hơn nửa thế kỷ (544-602), với 4 đời vua: Lý Nam Đế (544-548), Lý Đào Lang Vương (549-555), Triệu Việt Vương (549-570) và Hậu Lý Nam Đế (571-602).
          II. Trong lịch sử nước nhà, Lý Nam Đế là người đầu tiên xưng đế hiệu, và cũng là người đầu tiên đặt niên hiệu “Thiên Đức”
          Sau khi đánh thắng quân Lương, đuổi Thứ sứ Tiêu Tư về Trung Quốc, tháng Giêng năm Giáp Tý, Lý Bí chính thức lên ngôi Hoàng đế. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép về sự kiện này như sau: “Mùa xuân, tháng Giêng năm Giáp Tý (544), Vua nhân thắng giặc, tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi đặt niên hiệu (là Thiên Đức năm thứ 1 – TG), lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân, ý mong cho xã tắc truyền đến muôn đời vậy”[12].
          Như vậy, ta thấy trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, Lý Bí là người Việt Nam đầu tiên tự xưng Hoàng đế. Sử Trung Quốc, như bộ Tư trị thông giám của Tư Mã Quang đời Tống (960-1279) cũng ghi nhận Lý Bí xưng là Việt Đế, còn chính sử nước ta đều chép Đức vua xưng là Nam Đế, hoặc Nam Việt Đế. Tuy cả sử Trung Quốc và sử ta đều nói Lý Bí xưng Đế 帝(Việt Đế, hay Nam Đế…), nhưng cần hiểu chính xác của sự kiện lịch sử trọng đại này là: Lý Bí tự xưng Hoàng Đế: 皇帝.
          Chúng ta cần phải biết xưng Hoàng đế 皇帝khác với xưng Vương 王như thế nào?
          Sách Từ Nguyên giải thích: 皇帝: 秦以後,天子之稱。始皇并天下以為德兼三皇,功高五帝,更稱皇帝(Phiên âm:  Hoàng đế: Tần dĩ hậu, Thiên tử chi xưng. Thủy Hoàng tính thiên hạ dĩ vi đức kiêm Tam hoàng, công cao Ngũ đế, cánh xưng Hoàng đế. Dịch nghĩa: Hoàng đế: từ đời Tần Thủy Hoàng (221-211 tr. Cn) trở về sau này, là từ mà các bậc Thiên tử tự xưng. Tần Thủy Hoàng kiêm tính được toàn bộ thiên hạ, tự cho rằng tài đức của mình gồm kiêm cả Tam Hoàng[13], công nghiệp của mình cao hơn Ngũ đế[14], cho nên xưng là Hoàng đế[15]).
          Sách Từ Nguyên giải thích: “王: 君也,主也天下歸往,謂之王。三代時,惟有天下者,稱王。吴楚之稱王,皆僭稱也。漢以下,君主稱皇帝。皇族,功臣封王爵. (Phiên âm: Vương, quân dã, chủ dã, thiên hạ quy vãng, vị chi vương. Tam đại thời, duy hữu thiên hạ giả, xưng vương. Ngô, Sở chi xưng vương, giai tiếm xưng dã. Hán dĩ hạ, quân chủ xưng Hoàng Đế. Hoàng tộc, công thần phong vương tước. Dịch nghĩa: Vương là để chỉ người làm Vua, hay người làm Chúa, được người trong thiên hạ quy về, thì xưng là Vương. Thời Tam Đại (Hạ - Thương - Chu), chỉ có những người làm chủ thiên hạ mới xưng Vương. Nước Ngô, nước Sở bấy giờ xưng Vương, đều bị coi là tiếm xưng. Từ đời Hán (206 tr. Cn – 220 s. Cn) trở về sau, bậc quân chủ xưng là Hoàng đế, từ đó những người trong hoàng tộc và công thần được phong tước Vương[16]).
          Như vậy, chúng ta thấy, Lý Bí xưng Hoàng đế (gọi tắt là xưng Đế) là một sự khẳng định vị thế của nước Nam thời bấy giờ so với Trung Quốc. Trong bộ Lịch sử Việt Nam, Giáo sư Trần Quốc Vượng nhận định về sự kiện ấy như sau: “[Lý Bí] xưng đế, định niên hiệu riêng, đúc tiền riêng, lấy Nam đối chọi với Bắc, lấy Việt đối chọi với Hoa, những điều đó nói lên sự trưởng thành của ý thức dân tộc, lòng tự tin vững chắc ở khả năng tự mình vươn lên, phát triển một cách độc lập. Đó là sự ngang nhiên phủ định quyền làm “bá chủ thiên hạ” của Hoàng đế phương Bắc, vạch rõ sơn hà, cương vực và là sự khẳng định dứt khoát rằng nòi giống Việt phương Nam là một thực thể độc lập, là chủ nhân của đất nước và nhất quyết giành quyền làm chủ vận mệnh của mình”[17].
          Lý Nam Đế còn là vị vua đầu tiên của nước ta đặt niên hiệu là Thiên Đức 天德. Sử Trung Quốc chép Lý Bí tự xưng Việt Đế, và đặt niên hiệu là Đại Đức 大德. Nhưng ngày nay chúng ta có thể khẳng định vua Lý Nam Đế đặt niên hiệu là Thiên Đức, vì các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy những đồng tiền Thiên Đức đúc thời Tiền Lý.
          Chúng ta cần biết rằng việc các bậc đế vương ở phương Đông (Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên…) đặt ra “niên hiệu”, mục đích không chỉ giới hạn ở việc đánh dấu năm ở ngôi, mà vì niên hiệu chính thức, ngoài ghi năm ra, còn mang nhiều hàm nghĩa khác.
          Trong lịch sử Trung Quốc, vị vua đầu tiên đặt niên hiệu là Hán Võ Đế (140 – 87 tr. Cn), đó là niên hiệu Kiến Nguyên 建元(có nghĩa là “Mở đầu”).
Hàm nghĩa của niên hiệu có rất nhiều nghĩa như: Đánh dấu thời gian bắt đầu lên ngôi như: Kiến Nguyên của Hán Võ Đế, Thủy Nguyên của Hán Chiêu Đế, Bản Thủy của Hán Tuyên Đế, Sơ Nguyên của Hán Nguyên Đế… của Trung Quốc. Niên hiệu Kiến Tân của Trần Thiếu Đế, Nguyên Hòa của Lê Trang Tông… của Việt Nam. Ghi lại điều may mắn như: Hán Võ Đế thấy ngôi sao lớn, đổi niên hiệu thành Nguyên Quang (134-129 tr. Cn), vua Lý Thánh Tông (1054-1072) của Việt Nam, vào năm Mậu Thân (1068), thấy châu Chân Đăng dâng 2 con voi trắng, nhân đó đổi niên hiệu là Thiên huống bảo tượng (nghĩa là: Trời cho voi quý)… Nhưng phần lớn niên hiệu đều có ý nghĩa tô điểm thêm cho sự thái bình, biểu thị vận nước hưng thịnh, hoàng vị đời đời vững chắc như: Vạn Lịch, Càn Long, Gia Khánh, Đạo Quang… của Trung Quốc, hay: Hưng Long (Trần Anh Tông), Đại Khánh (Trần Minh Tông), Đại Bảo (Lê Thái Tông), Thái Hòa (Lê Nhân Tông), Hồng Đức (Lê Thánh Tông), Bảo Hưng (Nguyễn Quang Toản), v.v.. của Việt Nam.
          Vậy niên hiệu Thiên Đức 天德có ý nghĩa gì?
          Chúng tôi cho rằng đặt trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, vua Lý Nam Đế lựa chọn niên hiệu này, ít nhất có mấy nghĩa dưới đây:
          - Người được Trời ban Đức lớn.
          - Người có Đức lớn được Trời lựa chọn làm Hoàng đế phương Nam.
          - Người có Đức của bậc Thiên tử…
          Chúng ta nên nhớ rằng, trước Lý Bí xưng là Nam Việt Đế và đặt niên hiệu Thiên Đức, hơn 40 năm, vào năm 502, Tiêu Diễn (tức Lương Vũ Đế) sáng lập Vương triều Lương (502-557) đã đặt niên hiệu là Thiên Giám 天監(có nghĩa: được Trời soi xét đến). Như vậy, ta càng thấy niên hiệu Thiên Đức của Lý Nam Đế có ý đối chọi lại với niên hiệu Thiên Giám của Lương Vũ Đế.
          Lý Nam Đế đặt quốc hiệu nước ta lúc bấy giờ là Vạn Xuân 萬春và tổ chức cơ cấu triều đình mới, tuy rằng còn khá sơ sài, nhưng ngoài Hoàng đế đứng đầu, bên dưới đã có 2 ban văn, võ. Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ, Triệu Túc làm Thái phó… Triều đình Vạn Xuân là mô hình, lần đầu tiên, được Việt Nam thâu hóa và áp dụng, của một cơ cấu Nhà nước mới, theo chế độ trung ương tập quyền. Lý Nam Đế cho xây một đài Vạn Xuân để làm nơi văn vũ bá quan triều hội. Lúc này, Phật giáo đang phát triển mạnh ở nước ta cũng như ở Trung Hoa. Giới tăng ni là tầng lớp trí thức đương thời, chắc chắn đã ủng hộ Lý Nam Đế. Theo Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền, còn được lưu giữ tại đình Giang Xá, huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội, thì Lý Bí từ hồi nhỏ đã được “bán” cho ngôi chùa Hương Ấp, quê hương ông. Sau đó, khi chừng 12, 13 tuổi, Lý Bí lại được sư thầy là Phổ Tổ Thiền sư đưa về tu tập đến hơn 10 năm tại chùa Linh Bảo (hay chùa Giang Xá), gần với ngôi đình Giang Xá nói trên. Có lẽ, vì vậy, mà một người trong hoàng tộc nhà Tiền Lý và làm tướng cho Lý Nam Đế đã mang một cái tên đượm màu sắc sùng bái Phật tổ: đó là Lý Phật Tử (nghĩa là: Người họ Lý là con của Đức Phật).
          III. Lý Nam Đế là người đầu tiên nhận ra vị trí địa lý trung tâm đất nước của vùng đất Hà Nội cổ
          Ngày nay, chúng ta có khá nhiều bằng cứ để chứng minh Lý Nam Đế và các vị thủ lĩnh người Việt khác của Vương triều Tiền Lý là những người đầu tiên nhận ra vị trí quan trọng của miền đất Hà Nội cổ. Chúng ta đều biết “Tam giác châu Bắc Bộ” có 2 đỉnh:
          - Đỉnh thứ nhất là Việt Trì.
          - Đỉnh thứ hai là Hà Nội (trong đó có Thăng Long – Hà Nội và cả Cổ Loa – Đông Anh).
          Vùng đất Hà Nội, nơi hợp lưu của các dòng sông lớn nhỏ: sông Cái, sông Đuống, sông Nhuệ, sông Tô…
          Trước hết là những chứng cứ trong các bộ thư tịch cổ: Trần thư[18] ghi rõ: Năm 545, Lý Nam Đế đã dựng thành lũy ở cửa sông Tô Lịch để chống cự với quân xâm lược nhà Lương do Trần Bá Tiên cầm đầu. Sau khi bị thất trận ở cửa sông Tô, Lý Nam Đế mới lui giữ thành Gia Ninh ở Bạch Hạc, Việt Trì. Thành do Lý Nam Đế xây dựng là công trình quân sự đầu tiên ở vùng nội thành Hà Nội cổ mà sử sách biết đến. Nó cho ta khả năng nhận định rằng Lý Nam Đế đã nhận rõ tầm quan trọng về vị trí địa – quân sự của miền Hà Nội gốc.
          Tiếp đó là Tùy thư[19] cũng chép: Năm 602, để phòng giữ cuộc xâm lược đại quy mô của nhà Tùy (581-618), tướng Lý Phật Tử đã củng cố 3 ngôi thành cổ, thành thế chân vạc:
          - “Thành cũ của Việt Vương”, tức thành Cổ Loa: bấy giờ do Lý Phật Tử đóng giữ.
          - Thành Long Biên: do con người anh Lý Phật Tử là Lý Đại Quyền đóng giữ.
          - Thành Ô Diên: có thể là thành cổ Chu Diên của Thi Sách ở Hạ Mỗ (Đan Phượng – Hà Nội) do biệt tướng Lý Phổ Đỉnh đóng giữ.
          Những chứng cứ khá hiếm hoi của thư tịch cổ được bổ sung bởi các tài liệu di tích đền, chùa và truyền thuyết. Giữa lòng Hà Nội có một di tích và danh thắng nổi tiếng: Chùa Trấn Quốc 鎮國寺(Trấn Quốc tự). Sách Thiền Uyển tập anh ngữ lục (Ghi lời của các bậc anh tú trong vườn Thiền – đời Trần), trong truyện Thiền sư Vân Phong ( ? – 957), cho biết chùa này có tên là Chùa Khai Quốc 開國寺(Khai Quốc tự). Tấm bia Trấn Quốc tự bi ký (Văn bia chùa Trấn Quốc) do Trạng Nguyên khoa Đinh Sửu (1637) Nguyễn Xuân Chính soạn cho biết: Chùa xưa vốn ở bãi sông Nhị Hà (tức sông Hồng), dựng từ đời Lý Nam Đế gọi là chùa Khai Quốc. Khoảng niên hiệu Hoằng Định thứ 16 (1615) đời vua Lê Kính Tông (1600-1619), dân phường An Hoa (Yên Phụ) sợ đê lở, chùa đổ, mới dời chùa vào bán đảo Kim Ngư ở Hồ Tây tại vị trí hiện nay. Sau này, Vua Lê, Chúa Trịnh đổi tên thành chùa Trấn Quốc.
          Lý Nam Đế xây dựng ngôi chùa thờ Đức Phật lại ban tên là Chùa Khai Quốc (tức Chùa Mở nước) hẳn không phải là điều ngẫu nhiên. Chúng ta biết rằng Đức vua vốn đã từng là người tu hành đạo Phật, và chắc hẳn trong cuộc khởi nghĩa lật đổ ách thống trị hà khắc của Thái thú Tiêu Tư, nhà Lương vào đầu năm 542, Lý Nam Đế đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của giới tăng ni, phật tử. Xin lưu ý rằng, cũng ở thời Tiền Lý, vào năm 580, Thiền sư Tìniđalưuchi (Vinitaruci) ( ? – 594), học trò của Thiền sư Tăng Xán, vị Tổ thứ 3 của Thiền tông Trung Hoa[20] đã sang nước ta. Thiền sư Tìniđalưuchi dừng trụ ở chùa Pháp Vân (Bắc Ninh), và sáng lập nên dòng phái Thiền tông đầu tiên của Việt Nam[21]. Dòng phái Thiền tông này còn phát triển rực rỡ ở vào thời Lý – Trần, thế kỷ XI-XIII.
          Hiện nay, tại xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội có một cái đầm rộng, xưa mang tên đầm Vạn Xoan. “Xoan” tức là Xuân, đọc theo âm cổ dân gian[22]. Tương truyền bên bờ đầm Vạn Xoan ấy, khi xưa là nơi thiết lập triều đình Vạn Xuân của vua Lý Nam Đế. Năm 1962, Sở Văn hóa Hà Nội tìm thấy một tấm bia cổ bên bờ đầm Vạn Xoan, ghi niên hiệu nhà Lương (503-557), tức thời Tiền Lý.
          Với một số chứng cứ kể trên, rõ ràng còn khá ít ỏi và còn cần điều tra xác minh thêm, nhưng vẫn cho phép chúng ta đoán nhận rằng miền Hà Nội cổ, với ba trung tâm: Cửa sông Tô Lịch, Thành Cổ Loa (Đông Anh) và đầm Vạn Xoan (Thanh Trì), đã giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử Việt Nam, thời Tiền Lý nửa cuối thế kỷ VI.
          Khởi nghĩa Lý Bí năm 542 lật đổ ách thống trị của nhà Lương, thành lập Vương triều Tiền Lý tồn tại được khoảng gần 60 năm (544-602). Cho dù Đức vua Lý Nam Đế bị mất ở động Khuất Lão vào mùa xuân tháng 3 năm Mậu Thìn (548), nhưng người xưa từng căn dặn: “Chớ đem thành bại luận Anh hùng!”. Bậc Anh hùng như Đức vua Lý Nam Đế một khi đứng trước việc “Đại nhân – Đại nghĩa = đánh giặc – cứu nước”, thì Người có kể chi thành hay bại, miễn là khởi binh đánh cho lũ cướp nước, biết được lòng quả cảm, ý chí sắt đá của người Việt phương Nam.
          Để tạm kết luận bài viết này, tôi xin dẫn Lời Phê của vua Tự Đức (1848-1883) như sau:
          “Nam Đế nhà Tiền Lý dẫu sức không địch nổi giặc Lương, đến nỗi công cuộc không thành, nhưng đã biết nhân thời cơ vùng dậy, tự làm chủ lấy nước mình, đủ làm thanh thế mở đường cho nhà Đinh, nhà Lý sau này. Vậy việc làm của Lý Nam Đế há chẳng hay lắm sao?”[23].
 
                                                          Hà Nội, ngày 22 tháng 8 năm 2012
                                                                             N.M.T.
 


[1]. Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học xã hội, H. 1998, tập 1, tr. 178, 179.
[2]. Lương Võ Đế (503-549) là Tiêu Diễn, người sáng lập nhà Lương (503-557).
[3]. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, tr. 179.
[4]. Sử cũ: thí dụ Đại Việt sử ký toàn thư và nhiều bộ sử thời quân chủ, quan niệm nhà Triệu (179-111 tr. Cn) là một triều đại chính thống của nước ta và viết thành Kỷ nhà Triệu. Quan niệm đó, từ cuối thế kỷ XVIII, đã bị phê phán, mà người bác bỏ đầu tiên là Ngô Thì Sĩ, tác giả Việt sử tiêu án.
[5]. Nguyễn Nghiễm: là thân phụ của Đại thi hào Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều nổi tiếng.
[6]. Trích theo Ngô Thì Sĩ: Đại Việt sử ký tiền biên. Nxb Khoa học xã hội, H. 1997, tr. 110.
[7]. Cửu Đức: tức miền Hà Tĩnh ngày nay.
[8]. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng: từ năm 40 giành quyền độc lập, tự chủ, đến năm 43 thì bị Mã Viện đàn áp.
[9]. Ngô Thì Sĩ: Đại Việt sử ký tiền biên. Sđd, tr. 111.
[10]. Nguyễn Văn Tố: Đại Nam dật sử - Sử Ta so với sử Tàu. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam XB, H. 1997, tr. 78.
[11]. Nguyễn Văn Tố. Sđd, tr. 500.
[12]. Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học xã hội, H. 1998, tập 1, tr. 179.
[13]. Tam Hoàng có nhiều thuyết:
            a. Thiên Hoàng – Địa Hoàng – Nhân Hoàng (nhiều người theo thuyết này).
            b. Phục Hy – Thần Nông – Nữ Oa.
            c. Phục Hy – Thần Nông – Chúc Dung
            d. Phục Hy – Thần Nông – Hoàng Đế…
[14]. Ngũ Đế có 3 thuyết:
   a. Thái Hạo – Thần Nông – Hoàng Đế – Thiếu Hạo – Chuyên Húc
   b. Hoàng Đế – Chuyên Húc – Đế Cốc – Đế Nghiêu – Đế Thuấn.
   c. Thiếu Hạo – Chuyên Húc – Đế Cốc – Đế Nghiêu – Đế Thuấn.
[15]. Từ Nguyên: Bộ Bạch, tập Ngọ, tr. 1045.
[16]. Từ Nguyên: Bộ Bạch, tập Ngọ, tr. 987.
[17]. Phan Huy Lê – Trần Quốc Vượng – Hà Văn Tấn – Lương Ninh: Lịch sử Việt Nam. Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H. 1985, tr. 287.
[18]. Trần thư 陳 書: Tác giả là Diêu Tư Liêm, đời Đường (618-907) soạn, gồm 36 quyển, chép lịch sử nhà Trần (558-589), thời Nam Bắc triều, Trung Quốc.
[19]. Tùy thư 隋 書: Tác giả Ngụy Trưng, đời Đường (618-907) soạn, gồm 85 quyển, chép lịch sử nhà Tùy (581-618).
[20]. Thiền tông Trung Hoa: Một tông phái của Phật giáo Đại thừa tại Trung Quốc. Thiền tông sinh ra vào khoảng thế kỷ VI-VII, khi Bồ Đề Đạt Ma đưa phép Thiền của Đạo Phật Ấn Độ vào Trung Quốc, hấp thụ một phần nào đạo Lão.
            Thiền tông Trung Hoa có 6 vị Tổ:
            1. Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma – 470-543)   
2. Huệ Khả (487-593)
3. Tăng Xán (? 6-6)
4. Đạo Tín (580-651)
5. Hoằng Nhẫn ( ? - ?)
6. Huệ Năng (638-713)
[21]. Thiền tông Việt Nam hình thành bởi 3 dòng phái:
            1. Thiền phái thứ nhất do Thiền sư Tìniđalưuchi truyền vào năm 580.
            2. Thiền phái thứ hai do Thiền sư Vô Ngôn Thông truyền vào năm 820.
            3. Thiền phái thứ ba do Thiền sư Thảo Đường truyền vào năm 1069.
[22]. Ca dao có câu: Trai ba mươi tuổi đang xoan (xuân)
                           Gái ba mươi tuổi đã toan về già.
[23]. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Nxb Giáo dục, H. 1998, tập 1, tr. 173.