Chúng ta đang tiến hành các hoạt động Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2024) với tinh thần Điện Biên: khẩn trương, quyết chiến quyết thắng. Bản thân tôi vừa có chuyến đi Điện Biên Phủ, gặp gỡ các nhân chứng lịch sử và rất bất ngờ khi được biết hiện nay trên toàn tỉnh Điện Biên chỉ còn lại 142 cụ từng tham gia Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Các cụ tuổi đều sít soát chín mươi tới trên trăm, râu tóc bạc phơ, nhiều cụ đã lẫn ai nấy ngực đều huân chương lấp lánh.
Nhà thơ Lê Kim
Trong cuộc đi, tôi bồi hồi nhớ tới nhà thơ - nhà báo - Đại tá Lê Kim, người từng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ với cương vị Trưởng ban Tuyên huấn Trung đoàn 36 Đại đoàn 308. Tôi từng hai lần được tháp tùng ông lên Điện Biên. Lần đầu năm 2004 chúng tôi mời ông với tư cách nhân chứng lịch sử lên làm giao lưu truyền hình tại Điện Biên. Lê Kim dí dỏm mà sâu sắc luôn biết chọc cười khán giả. Trên chiến hào Đồi A1, tôi từng trêu Lê Kim: “Ôi trời bác Lê Kim! Trông bác cứ như một tên lính Pháp vừa thoát ra khỏi hầm hào Điện Biên Phủ. Có lẽ nào câu chuyện chiến binh Nhật sống mấy chục năm ở đảo hoang không tin Nhật hoàng đã đầu hàng nay lại xuất hiện nơi hầm hào quân Pháp thế này!” Lê Kim nheo mắt cười nói mấy câu tiếng Pháp rồi giơ hai tay có vẻ đầu hàng khiến ai nấy cười vang. Lê Kim rất giỏi tiếng Pháp. Từ nhỏ ông đã được học hành chu đáo từ bậc tiểu học ở quê tỉnh Bắc Ninh đến trường Bưởi danh tiếng Hà Nội. Ông có vốn tiếng Pháp thành thạo và sau này còn sử dụng thêm tiếng Anh. Lê Kim nổi tiếng từ rất sớm. Năm 1948, ở tuổi hai mươi, ông đã có tập thơ Đời cứ tươi xuất bản tại Quân khu Việt Bắc được lưu truyền rộng rãi trong các đơn vị bộ đội và nhân dân với các bài thơ cổ vũ lòng yêu nước và căm thù giặc. Bộ đội thuộc thơ ông đến mức ở đâu cũng tổ chức đọc thơ kể cả lúc bụng đói cật rét đọc thơ Lê Kim cũng phải bật cười: “Ba người một cái chăn bông/ Nằm thẳng cũng khổ, nằm cong cũng phiền/ Đắp dọc thì hở hai bên/ Đắp ngang thì lạnh... như tiền, cái chân!/ - Mặc cho trời đất xoay vần/ Thịt da ta lại đắp lần thịt da/ Thằng nghiêng nằm giữa thằng co/ Ba thằng quặp chặt, gió lùa vào đâu?” (Nửa đêm). Thơ Lê Kim chân chất thật thà hạt lúa củ khoai lính tráng quá chừng mà khi sâu sắc khẩu khí tuyên truyền cũng không phải dạng vừa đâu: “Nửa đêm sương gội mái đầu/ Chòi cao phần phật mấy tàu lá khô/ Bộ đội nằm giữa rừng già/ Gió về thức tỉnh giấc mơ diệt thù... (Nửa đêm).
Bài thơ với những câu thơ như trên đã từng được đưa vào sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4 (bộ sách giáo khoa cũ) mà ngày còn nhỏ chúng tôi đều thuộc lòng.
Tượng đài Chiến thắng Điện Biên Phủ
Lê Kim từng tâm sự về nghề nghiệp văn chương và cuộc đời quân ngũ: “Tôi bắt đầu làm thơ từ năm 1945, khi đang học trường trung học Hàn Thuyên, Bắc Ninh, được bầu làm chủ bút tờ nội san Đoàn kết. Cuộc sống trong kháng chiến khiến tôi đi sâu dần vào thể loại châm biếm, đả kích địch. Nhất là sau khi được sự cổ vũ của nhà thơ Xuân Diệu, người đã viết bài giới thiệu tập thơ đầu tay của tôi (Đời cứ tươi) trên Tạp chí Văn nghệ năm 1949, tiếp đó là sự động viên của nhà thơ Tú Mỡ, người đã xét duyệt bài thơ đả kích của tôi (Kế hoạch Lo Ren) lần đầu tiên đăng trên Tạp chí Văn nghệ năm 1952.
Là một người lính liên tục bốn mươi sáu năm trong quân ngũ, sau khi nghỉ hưu lại tiếp tục công tác tại Báo Cựu chiến binh, tôi quan niệm thơ châm biếm là một loại vũ khí sắc nhọn, kịp thời tiến công vào cái ác, cái xấu, để cuộc đời thêm tươi vui, lành mạnh. Dĩ nhiên, tôi làm thơ theo cảm xúc riêng, nhưng cũng nhiều lần viết theo “đơn đặt hàng” và đã làm đủ các thể loại: thơ ca, hò vè, tấu nói, diễn ca... coi như một công tác phục vụ kháng chiến, phục vụ cách mạng”.
Lê Kim luôn là như vậy.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, nhà thơ - nhà báo Lê Kim luôn có những sáng tác ngay tại chiến hào. Ông xông xáo và có phần liều lĩnh khi không quản mưa bom bão đạn vượt qua bùn và máu tới những trọng điểm ác liệt đọc thơ cho bộ đội. Những câu thơ chẳng khác gì khẩu đại liên cứ nhằm thẳng quân Pháp mà bắn như những đường hào xuyên thẳng vào lô cốt của địch: “Điện Biên Phủ bị ta vây chặt/ Các thứ Tây đều mất tinh thần/ Có thằng lính ngụy than thân:/ Điện Biên Phủ biến thành... âm phủ rồi!... Đồn trại Tây: diêm la, địa phủ/ Lính với quan: quỷ sứ, ma vương/ Đứa bị chết, đứa bị thương/ Hầm sâu lúc nhúc một phường hôi tanh (Điện... âm phủ).
Các bài thơ, bài báo, tiểu phẩm sáng tác trong suốt Chiến dịch Điện Biên Phủ ngay sau đó được Lê Kim biên soạn và in thành tập Chuyện Tây thua được cán bộ chiến sĩ chuyền tay nhau đọc và được Đại tướng Võ Nguyên Giáp khen ngợi. Đồng chí Chính ủy Trung đoàn khi đó là Phạm Hồng Cư (sau này là Trung tướng - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam) luôn động viên Lê Kim sáng tác và công tác. Trong suốt cuộc đời, Lê Kim luôn rất trân trọng và cảm phục trí tuệ tài hoa và đạo đức sáng ngời của Trung tướng Phạm Hồng Cư. Trung tướng Phạm Hồng Cư cũng là anh em đồng hao với Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Tác giả bài viết bên mộ liệt sĩ Phan Đình Giót tại Nghĩa trang A1
Lê Kim có một sự nghiệp làm báo đồ sộ xuyên suốt gần nửa thế kỷ, từ năm 1956 đến năm 2003. Năm 1956, ông về công tác tại Báo Quân đội nhân dân đến năm 1992. Gần bốn mươi năm ở Báo Quân đội nhân dân, ông công tác tại Phòng Biên tập Thời sự Quốc tế với những dấu ấn đậm nét. Ông từng có mặt tại Palestine năm 1973 giữa lúc cuộc chiến tranh Israel - Palestine diễn ra ác liệt. Từng có mặt ở Điện Biên Phủ trong chiến hào đầy bùn và máu, ông rất hiểu về sự ngoan cường và hy sinh lớn lao của nhân dân Palestine. Loạt bài ký sự của ông kể về cuộc chiến đấu ngoan cường, dũng cảm của nhân dân Palestine trước kẻ thù đã được trao giải báo chí đặc biệt của Hội Nhà báo Việt Nam. Ông cũng là nhà báo quân đội đầu tiên thăm Algeria, Syria và một số nước khác. Khả năng ngoại ngữ thành thạo đã cho ông nhiều cơ hội và thể hiện tốt với cương vị nhà báo, nhà thơ. Chính từ những chất liệu đó, Lê Kim viết báo, viết văn, làm thơ, viết các tiểu phẩm đều vào hàng “khủng” với 15 đầu sách các loại. Ông là một trong những tấm gương lao động sáng tạo bền bỉ, kiên cường mà nói như chính Lê Kim là: “Viết đến hơi thở cuối cùng”.
Lê Kim chưa bao giờ có khái niệm nghỉ hưu. Năm 1992, rời Báo Quân đội nhân dân, Lê Kim tới công tác tại Báo Cựu chiến binh đến năm 2003 và cộng tác với Tạp chí Lịch sử Quân sự đến năm 2012. Ở Lê Kim còn thở tức là còn viết. Còn sống tức là còn lao động báo chí văn chương nghệ thuật. Trong những lần tôi đến làm việc cùng ông viết các kịch bản giao lưu truyền hình cho những lễ kỷ niệm lớn, ông đều rất nhiệt thành. Trong căn hộ tập thể nhỏ chưa đầy 20 mét vuông bốn bức tường chật kín sách, báo, tạp chí trong nước và nước ngoài. Lê Kim thường làm việc từ 5 giờ sáng tới 10 giờ tối chỉ nghỉ trưa chút ít. Ông có trí nhớ cực tốt đã sửa cho tôi từng câu kịch bản giao lưu truyền hình. Trong cuộc giao lưu năm 2004 ở Điện Biên và Học viện Báo chí và Tuyên truyền, chính Lê Kim chứ không phải cô MC xinh đẹp nổi tiếng chiếm diễn đàn và tạo ra những đợt sóng vỗ tay tưởng chừng không dứt. Những kịch bản giao lưu truyền hình mà tôi thực hiện, nhiều kịch bản xuất sắc đều có “dấu giày” của nhà báo - nhà thơ Lê Kim.
Trong những ngày ở Điện Biên, dâng hương các tượng đài, nghĩa trang liệt sĩ; trước trùng trùng mộ liệt sĩ vô danh, lứa chúng tôi, những người lính sinh ra và trưởng thành sau chiến tranh bỗng thấy lòng mình nao nao, bâng khuâng, bịn rịn, cay cay mắt. Thoáng cái bảy mươi năm! Biết bao thế hệ cầm súng và cầm bút đã lần lượt trở về thế giới của người hiền, với đồng chí đồng đội ngã xuống khi chưa đầy hai mươi tuổi để chúng ta có cuộc sống thanh bình, hạnh phúc hôm nay.
Đoàn công tác tại Tượng đài Noong
Trong không khí bịn rịn, bâng khuâng ấy, chúng tôi như nhìn thấy Lê Kim bước ra từ lòng chảo Điện Biên, bước ra từ hầm Đồi A1 hai tay huơ huơ rất sinh động, miệng thốt ra mấy câu tiếng Pháp khiến ai nấy bật cười.
Mà bây giờ ông đã như một vầng mây trắng.
Nhà văn Phùng Văn Khai