(Thứ sáu, 23/11/2018, 09:56 GMT+7)

CÂU ĐỐI TẠI CÁC ĐÌNH LÀNG

THỜ PHÙNG HƯNG VÀ LĂNG MỘ ÔNG

 TẠI HÀ NỘI

 

Nhà văn Đặng Văn Sinh

 

Sau 24 năm khởi nghĩa, khi hạ thành Tống Bình tức kinh đô Thăng Long, Hà Nội ngày nay, Phùng Hưng chính thức đóng lỵ sở tại "An Nam đô hộ phủ" cai trị đất nước nhưng không xưng đế xưng vương. Bảy năm sau khi ông qua đời, con trai Phùng An lên nối ngôi mới dâng tôn hiệu cha là Bố Cái Đại vương.

Tuy không xưng vương nhưng ân đức của Phùng Hưng đối với dân Đại Việt lúc bây giờ vô cùng lớn lao. Chỉ riêng việc ông đem quân từ Đường Lâm ra vây thành Tống Bình trong nhiều năm đến nỗi Cao Chính Bình lo sợ mà chết, cuối cùng đuổi được giặc Đường ra khỏi bờ cõi đã là một kỳ tích có một không hai trong lịch sử chống ngoại xâm.

Tìm trong chính sử chỉ có "Đại Việt sử ký toàn thư" viết về Phùng hưng được khoảng 20 dòng, còn các bộ sử khác thì rất sơ sài. Đó là chưa nói đến thái độ kỳ thị của các sử gia nhà Đường đối với những cuộc khởi nghĩa nông dân Đại Việt. Trong "Cựu Đường thư", sự kiện Phùng Hưng chỉ được ghi có một dòng không phản ánh đúng bản chất của cuộc nổi dậy giành chính quyền của người dân dưới chế độ hà khắc, sưu cao, thuế nặng của tên thái thú Cao Chính Bình.  

Sử sách không ghi nhưng người dân đương thời lại thể hiện tinh thần kính ngưỡng vô cùng đối với Bố Cái Đại vương, coi ông như bậc phụ mẫu tái sinh. Vì thế, khắp các địa phương xung quanh thành Tống Bình, dân chúng đều lần lượt lập đền thờ hoặc xây đình tôn ông làm thành hoàng như môt vị tượng đẳng phúc thần.

Cùng với đình làng, đền miếu là hàng loạt hoành phi, câu đối của các nhà khoa bảng, nho sĩ vinh danh Bố Cái Đại vương. Các câu đối đều tôn xưng mỹ tự hoặc gắn liền công lao của ngài với những điển tích để tỏ lòng biết ơn một vị anh hùng Đại Việt đã đem lại nền độc lập, tự do cho bách tính sau nhưng đêm dài nô lệ.

Tuy nhiên, các hoành phi, câu đối về Bố Cái Đại vương ở đền thờ ngài tại bản quán Đường Lâm từ lâu đã được dịch và giới thiệu với công chúng bạn đọc. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ giới hạn một số câu đối tại các ngôi đình thờ Đương cảnh thành hoàng Phùng Hưng ở các đình Kim Mã, Quảng Bá - Hoàng Cầu và lăng mộ của ngài tại Hà Nội để giới thiệu với bạn đọc.

 

金馬孝忠標史冊

唐林義勇表山河

Phiên âm:

Kim Mã hiếu trung tiêu sử sách,

Đường Lâm nghĩa dũng biểu sơn hà.

Dịch nghĩa:

Tại làng Kim Mã, lòng trung hiếu của đức ngài còn lưu trong sử sách,

Ở Đường Lâm, tinh thần trượng nghĩa và sự dũng cảm của ngài sáng tỏ mãi với núi sông.

Tạm dịch câu đối:

Kim Mã hiếu trung nêu sử sách,

Đường Lâm nghĩa dũng rạng sơn hà.

 

 

千餘年德澤汪涵仰如父母

十三寨人焉繁會長此江山

Phiên âm:

Thiên dư niên đức trạch uông hàm ngưỡng như phụ mẫu,

Thập tam trại nhân yên phồn hội trường thử giang sơn.

Dịch nghĩa: 

Hơn một ngàn năm, ân đức của ngài thấm sâu khiến dân chúng kính trọng như cha mẹ,

Mười ba trại dân cư đông đúc còn mãi mãi với núi sông.

Tạm dịch câu đối:

Nghìn năm lẻ, ân đức thấm nhuần, kính như cha mẹ,

Mười ba làng, dân cư đông đúc, còn với núi sông.

Chú thích13 trại đây nói tới khu phía tây kinh thành Thăng Long, trong đó có Kim Mã, do Linh Lang đại vương (Hoằng Chân) là con trai của vua Lý Thánh Tông lập nên

 

萬古英靈昭日月

一天正氣壯山河

Phiên âm:

Vạn cổ anh linh chiêu nhật nguyệt,

Nhất thiên chính khí tráng sơn hà.

Dịch nghĩa:

Anh linh của ngài vạn năm vẫn sáng cùng nhật nguyệt,

Tấm lòng ngay thẳng của ngài giữa trời làm khiến sông hùng tráng.

Tạm dịch câu đối:

Vạn thuở anh linh soi nhật nguyệt,

Một trời chính khí vững non sông.

 

威德英雄轟宇宙

聲靈豪傑凜千秋

Phiên âm:

Uy đức anh hùng oanh vũ trụ

Thanh linh hào kiệt lẫm thiên thu

Dịch nghĩa:

Uy đức của bậc anh hùng vang dội trong vũ trụ,

Thanh linh (thanh thế uy linh) của bậc hào kiệt lẫm liệt đến ngàn năm.

Tạm dịch câu đối:

Uy đức anh hùng vang vũ trụ,

Thanh linh hào kiệt vọng nghìn năm.

Chú thích:聲靈(thanh linh) theo "Hán ngư từ điển" giải thích 聲勢威靈(thanh thế uy linh) nghĩa là thanh thế của ngài vừa uy nghi vừa linh hiển.

 

搏虎威揚除北寇

箠龍仁義護南天

Phiên âm:

Bác hổ uy dương trừ Bắc khấu (uy dương là biểu thị uy phong)

Thùy (chùy) long nhân nghiễm hộ Nam thiên

Dịch nghĩa:

Bắt hổ tỏ rõ uy phong diệt giặc phương Bắc,

Đánh rồng, lòng nhân nghĩa bảo vệ trời Nam.

Tạm dịch:

Bắt hổ uy phong trừ giặc Bắc,

Đánh rồng nhân nghĩa giữ trời nam.

Chú thích:

1 - Vế thứ hai của câu đối này 箠龍仁儼護南天(Thuỳ long nhân nghiễm hộ Nam thiên) có một chữ khó đọc là chữ 儼(nghiễm). Chữ 儼(nghiễm) có nghĩa, 1: trang trọng, cung kính (tính từ); 2: tề chỉnh, ngăn nắp (phó từ); 3: phảng phất, giống như. Chúng tôi đã tra từ 仁儼(nhân nghiễm) trong 漢語詞典(Hán ngữ từ điển) và 漢典(Hán điển) nhưng đều không cho kết quả, vậy coi như tồn nghi, sẽ bổ sung sau khi xác định được mặt chữ.

2 - Chữ 箠(bính âm là chuí), âm Hán Việt có 2 cách đọc là "thùy" hoặc "chùy", đều có nghĩa là roi đánh ngựa, hình phạt đánh trượng hoặc đánh roi. Nghĩa ẩn của chữ này trong vế đối là "đánh rồng" tức đánh hoàng đế nhà Đường

 

有家德澤留鄉邑

不愍敏精神在墓陵

Phiên âm:

Hữu gia đức trạch lưu hương ấp

Bất mẫn tinh thần tại mộ lăng

Dịch nghĩa:

Ân đức của ngài lưu tại quê hương (Đường Lâm),

Tinh thần của ngài còn mãi tại mộ lăng.

Tạm dịch câu đối:

Ân đức thấm nhuần lưu quê quán

Tinh thần sống mãi tại mộ lăng.

 

捍患除災霑聖德

安民護國顯神功

Phiên âm:

Hãn hoạn trừ tai triêm thánh đức,

An dân hộ quốc hiển thần công.

Dịch nghĩa:

Ngăn hoạn nạn, trừ tai ương, dầy thánh đức

Yên dân tình, giúp nước nhà, tỏ thần công

Tạm dịch câu đối:

Bài nạn trừ tai dầy đức thánh,

An dân giúp nước sáng công thần.

 

龍種肇南邦胞卵精英歸水後靈分治化

虍冠驚北寇黎元愛對配天徽號合生呼

Phiên âm:

Long chủng triệu Nam Bang, bào noãn tinh anh, quy thủy hậu linh phân trị hóa,

Hổ quan kinh Bắc khấu, lê nguyên ái đối, phối thiên huy hiệu hợp sinh hô.

Dịch nghĩa:

Giống rồng mở nước Nam, bọc trứng nở ra các bậc anh tài, trở về vùng sông hồ, sau thành linh thiêng, chia nhau cai quản đất nước,

Cái mũ có thêu hình con hổ khiến giặc Bắc kinh sợ, dân chúng mến mộ, được thờ cúng ngang với trời, (dân) ca múa vinh danh tôn hiệu.

Tạm dịch câu đối:

Rồng mở cõi Nam, bọc trứng tinh anh, linh hiển chia nhau cai quản giang sơn,

Mũ hổ kinh giặc Bắc, muôn dân mến mộ, sánh trời ca múa xưng tôn hiệu.

 

北寇圖兵萬古山河開國統

南邦丕冒兆人父母幾人碑

Phiên âm:

Bắc khấu đồ binh, vạn cổ sơn hà khai quốc thống, (Giặc Bắc dẹp yên, muôn thuở vẫn non sông, ghi công mở nước)

Nam bang phi mạo, triệu nhân phụ mẫu kỷ nhân bi (Nước Nam vùng dậy, triệu người tôn cha mẹ, bia tạc lòng dân)

Dịch nghĩa:

Dấy binh đánh lui giặc phương Bắc, có công khai mở đất nước cho muôn vạn đời sau,

Lòng khoan dung của ngài ở nước Nam, dân coi như cha mẹ, công ơn ghi tạc vào lòng dân.

Tạm dịch câu đối:

Giặc Bắc dẹp yên, khai mở non sông cho vạn đại,

Nước Nam tưởng nhớ, tôn cha mẹ, bia tạc lòng dân.

Ngoài câu đối thờ Phùng Hưng trong đình, ở Kim Mã còn có các câu đối ở lăng mộ ca ngợi công đức và sự nghiệp to lớn của ngài.

Chú thích: 丕冒Phi mạo: rộng rãi, quảng đai

 

去暴封功一統山河光越史

除凶盛德萬民父母顯甘林

Phiên âm:

Các tin liên quan