(Thứ bảy, 29/06/2019, 10:05 GMT+7)

TƯ LIỆU HỘI THẢO HỌ PHÙNG TRONG SỰ NGHIỆP ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC QUA CÁC THỜI KỲ
 

PHÙNG KHẮC KHOAN
THỜI ĐẠI - CUỘC ĐỜI
 

(Tham luận từ Hội thảo Khoa học Danh nhân văn hóa Phùng Khắc Khoan
tại Thạch Thất - Hà Tây (cũ)
 

Nhà sử học Nguyễn Vinh Phúc

 
Làng quê
 
Xã Phùng Xá nay gồm hai làng cổ là Phùng Thôn và Vĩnh Lộc. Làng Phùng còn có tên nôm là làng Bùng vốn có tên là trang An Hoa, sau lại gọi là Phùng Gia trang. Về cái tên An Hoa thì chưa rõ sự tích chính xác là như thế nào. Còn chữ trang thì rõ ràng là nơi có người ở mà chung quanh là ruộng đồng mà ruộng đồng ấy thuộc về một ông chủ, tức vị trang chủ. Như vậy có thể nói đây vốn là khu đất thuộc quyền sở hữu của một hào trưởng. Điều này có thể tin được vì sau lại đổi gọi là Phùng Gia trang tức trang (trại, ấp) của họ Phùng. Có thể hiểu là có một họ Phùng đã tới đây khai thác đất đai và lập ra một trang trại, trang ấp. Theo một truyền thuyết thì họ Phùng đó là dòng dõi Phùng Hạp Khanh: ông này là hào trưởng ở đất Đường Lâm, từng theo Mai Hắc Đế khởi nghĩa (thế kỷ thứ 8). Phùng Hạp Khanh chính là cha của Phùng Hưng - Bố Cái đại vương. Nhưng theo sự ghi chép của thần phả làng Phùng Thôn thì vì thành hoàng của làng là ông Phùng Thành Hòa, một bộ tướng của Lý Bí (như vậy là sống khoảng thế kỷ thứ 6). Vậy trong thực tế, chưa rõ họ Phùng ở Phùng Thôn là dòng dõi Phùng Thành Hòa hay Phùng Hạp Khanh, tất nhiên không loại trừ khả năng Hạp Khanh là hậu duệ của chính Thành Hòa. Có điều là theo thần phả ở Đường Lâm kể sự tích Phùng Hạp Khanh thì chỉ lên đến viễn tổ là Phùng Trí Cái sống thời thuộc Đường thế kỷ thứ 7.
Tuy nhiên, có thể nhận định - qua hai truyền thuyết trên - là muộn nhất thì Phùng Gia trang - trong đó có làng Bùng - đã xuất hiện từ thế kỷ thứ 8. Như vậy đây đã là dải đất dư ngàn tuổi. Địa linh nhân kiệt, không lấy gì làm lạ, làng Bùng - Phùng xã là quê hương Đại tư mã Nguyễn Cảnh Câu đời Lý, Hàn Lâm viện thị thư Thám hoa Nguyễn Đăng Đạt đời Trần, Đặc tiến Kim tử Vinh Lộc Đại phu tiến sĩ Vũ Đình Dung và trạng Bùng sau đó còn có tiến sĩ Nguyễn Nham.
Như vậy đó, Phùng Xá - Làng Bùng có một bề dày lịch sử đáng chú ý, lại tọa lạc trên một vùng bán sơn địa, núi non gò đống Câu Lậu, Răng cưa mà ngay ở làng Bùng tôi vẫn cho là có một gò cao nào đó, xưa chắc là có cao độ đáng kể, có tên gọi gần hay chính là chữ mai. Vì cụ Phùng Khắc Khoan hơn một lần lấy tên hiệu là “Núi Mai”: Mai nham, Mai Lĩnh. Đây hẳn không phải là mỹ tự mà là có một nham, một lĩnh. Đây hẳn không phải là mỹ tự mà là có gắn bó với ông Trạng. Cũng xin báo cáo thêm theo môn phong thủy mà ngày trước khá phổ biến thì “cao nhất thốn giả vi sơn” (cao 1 tấc là núi vậy). Xin các vị ở quê hương Trạng cho ý kiến.
Trở lại làng Bùng, từng có nghề dệt chồi (khu 4 gọi là sồi), lụa và lượt. Khăn lượt, áo lượt, giấy lọc bột tất phải dùng lượt Bùng. Thời xưa, hẳn đây là một nghề thủ công thịnh vượng, nguyên liệu thì xứ Đoài xưa không thiếu đất chăn tằm ươm tơ. Cổ Đô, Vân Sa ở Quảng Oai (cũ), Canh Nậu, Hương Ngải cũng ở Thạch Thất. Rồi Bảo Lộc, Vĩnh Thọ ở Phúc Thọ… Còn đầu ra thì bốn cái chợ lớn ở Thạch Thất: Chợ Săn, Chợ Nủa Hữu Bằng, chợ Đại Đồng, chợ Gạch cũng đủ là thị trường gần gũi.
Cái thành ngữ khéo tay hay nghề cũng có thể áp dụng cho Làng Bùng Xã được lắm.
 
Thời đại
 
 Phùng Khắc Khoan sinh năm 1528, mất năm 1613, tám mươi lăm năm trong đó có tới 65 năm hoạt động của ông thuộc vào thế kỷ XVI. Trước đây có một thời các nhà sử học coi đó là thế kỷ mà chế độ phong kiến suy vong hoặc suy đồi, suy thoái, gần đây với cách nhìn mới, giới sử học có bàn lại vấn đề suy mạt của chế độ phong kiến. Có người nêu: “Chế độ phong kiến với tư cách một quan hệ sản xuất phong kiến đã trở nên lỗi thời không phù hợp với yêu cầu phát triển của sức sản xuất. Khi trong lòng nó đã nảy sinh, ít ra là những mầm mống của sức sản xuất và quan hệ sản xuất mới” (Phan Huy Lê). Theo đó, ở Việt Nam trong 2 thế kỷ XVI, XVII và đầu thế kỷ XVIII nền kinh tế phong kiến nói chung vẫn tiếp tục phát triển, tuy tình trạng phân liệt và nội chiến có gây ra những trở ngại và tàn phá nào đó. Thế kỷ XVI và XVII là giai đoạn phát triển khá mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa. Cho nên xét theo quy luật vận động nội tại của hình thái kinh tế - xã hội này chưa thế nói là chế độ phong kiến Việt Nam ở thế kỷ XVI đã suy vong.
Tuy nhiên, việc tranh chấp giữa các phe phái phong kiến cục diện, phân liệt và hỗn chiến phong kiến đã ảnh hưởng nhiều đến tư tưởng kẻ sĩ. Bởi về mặt hệ ý thức thì kẻ sĩ đương thời từng chứng kiến thời điểm thịnh trị Hồng Đức ở cuối thế kỷ XV với tất cả những đặc trưng điển hình của một cơ chế nhà nước quan liêu chuyển sang một thời kỳ dồn dập và náo động bao gồm nhiều bước khủng hoảng chính trị ngắn: Sự sụp đổ liên tiếp của các biểu tượng của nền quân chủ với các “vua lợn” “vua quỷ”, sự cát cứ của các tay quân phiệt, dẫn đến cuộc đảo chính của Mạc Đăng Dung, rồi hoạt động “Trung hưng” của đám cựu thần nhà Lê, từ đó dẫn đến chiến tranh, giữa nhiều tập đoàn phong kiến, và giữa phong kiến với nông dân.
Năm Phùng Khắc Khoan chào đời (1528) là năm Mạc Đăng Dung sau khi giết Lê Cung Hoàng (1522 - 1527) và Thái hậu họ Trịnh đã lên ngôi vua mở đầu cho nhà Mạc (từ tháng 6 năm 1527). Như vậy Phùng lớn lên trong tư cách tôi con nhà Mạc. Và là kẻ sĩ, như các kẻ sĩ khác, ông rất quan tâm đến thời sự chính trị mà vào thời đó (tức trong thời trai trẻ tìm đường của Phùng, khoảng những năm của thập kỷ 40) xã hội thật rối ren. Nhà Mạc tuy có những chính sách cởi mở về kinh tế nhưng đàn áp về chính trị cũng không phải vừa. Cho nên thời thanh niên Phùng Khắc Khoan chứng kiến nhiều người từng là đại thần thân cận của họ Mạc mà lại bỏ Mạc quý Lê. Không kể trường hợp Tây An Bá Lê Phi Thừa cai quản tỉnh Thanh Hóa đã bỏ Mạc theo Lê vào năm 1537 là năm Phùng mới lên 10 tuổi, chưa có nhận thức chính xác. Còn thì năm 1543, một viên đại thần cai quản Thanh Hóa khác là Trung hậu hầu đã bỏ Mạc về với Lê, năm 1550, một tập thể đại thần: Nam đạo tướng, thái tể Phùng Quốc Tông Lê Ba Ly và con là Phổ Quận công Lê Khắc Thận, với thông gia là Lại bộ thượng thư ngự sử đại độ ngự sử, đông các đại học sĩ nhập thị kinh điển Thư Quận công Trạng nguyên Nguyễn Khắc Thiến và con là Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn đã chạy vào Thanh Hóa theo Lê.
Hai năm sau, vào 1552 Tây đạo tướng. Thái úy Đoan quốc công Nguyễn Khải Khang cũng theo gương Bá Ly, Nguyễn Thiến…
Một thực tế nữa là chiến tranh Nam Bắc triều dai dẳng, tạo nên sự không ổn định về chính trị cho nhà Mạc. Vì kinh tế tất có ảnh hưởng, nhưng theo tôi không nhiều, vì chiến tranh ngày ấy không phải quy mô hủy diệt như ngày nay. Các trận đánh chỉ diễn ra ở một xóm nào đó hoặc rộng lắm là một cụm làng. Cho nên nơi nào không có trận đánh diễn ra thì kinh tế vẫn bình thường vậy thôi. Khoa cử vẫn mở đều, vẫn có cả trạng nguyên tức là sự học và dạy được diễn ra một cách bình thường. Mà giáo dục là liền em của kinh tế, vì có thực mới vực được đạo, có đủ ăn mới có đi học. Tuy nhiên chiến tranh dai dẳng ảnh hưởng nhiều đến tâm lý kẻ sĩ, vì Nam hay Bắc triều đều có danh nghĩa cả - Như năm 1555, quân Mạc đánh vào Thanh Hóa, chiến trường là một dải sông Mã khu vực từ làng Yên Định xuống tới núi Quân Yên làng Cẩm Chướng dài khoảng 4 km.
- Năm 1557, quân Mạc đánh Thanh Hóa ở vùng Nga Sơn - Yên Mô.
- Năm 1558, quân Lê Trịnh đánh ra Sơn Nam, 2 lần vào đầu năm.
- Năm 1559, Lê Trịnh đánh ra Sơn Tây, Tuyên Quang, lan sang Kinh Bắc rồi xuống Hải Dương trong năm 1560. Lần này Trịnh Kiểm ở lại Bắc đúng 2 năm (từ tháng 9 âm lịch 1559 đến tháng 9 âm lịch 1561).
- Trong khi đó tháng 3 âm lịch 1561, quân Mạc đánh vào Thanh Hóa (khiến Trịnh Kiểm phải trở về nơi này).
- Năm 1564, Trịnh Kiểm lại đưa quân ra đánh phủ Trường Yên (Ninh Bình) tới Sơn Minh tức Ứng Hòa.
- Năm 1565, tháng 4 Trịnh Kiểm lại ra đánh Sơn Nam, phía các huyện Gia Viễn, Yên Mô, Yên Khang (nay là Yên Khánh). Tháng 9 lại ra đánh lần thứ hai, nhân đó quân Mạc ập vào đánh Thanh Hóa, vùng Hậu Lộc, Hoằng Hóa buộc Trịnh Kiểm phải rút về nơi đây để chống giữ. Chỉ nêu trong 10 năm, cũng thấy như vậy là có 9 lần hai phe Mạc - Lê và Trịnh đánh nhau (4 lần Mạc đánh vào Thanh Hóa, 5 lần Trịnh đánh ra Bắc).
Trừ lần Trịnh Kiểm ra Bắc (1559 - 1561) đi vờn quanh Thăng Long từ Tây lên Bắc sang Đông, có thể đó là cuộc hành quân phô trương thanh thế nhiều hơn là làm chiến tranh, bởi sau đó lại rút về Thanh Hóa căn cứ địa.
Cho nên cuộc tranh chấp Mạc - Lê Trịnh ngày ấy không phải là chiến tranh tàn sát trên địa bàn rộng, mà là rất cục bộ, nên không mấy tác động đến toàn bộ nền kinh tế đương thời. Nhưng có tác động đến tâm lý người dân, nhất là những kẻ sĩ vốn hay suy ngẫm, vốn ưu thời mẫn thế, vốn tiên ưu hậu lạc. Dưới đây xin bàn về kẻ sĩ Phùng Khắc Khoan.
 
Cuộc đời
Phan Huy Chú từng có nhận xét về Phùng Khắc Khoan như sau: “Lúc trẻ đã nổi tiếng văn học, theo học trạng nguyên Nguyễn ở Vĩnh Lại, kiêm thông cả thuật số… ông là người cương quyết, sáng suốt, có tài, cái gì cũng biết được chỗ cốt yếu. Văn chương ông thanh nhã, dồi dào, có các thi tập truyền ở đời”.
Chúng ta thử tìm hiểu cuộc đời vinh quang đó bắt đầu như thế nào.
Trước hết, xin thưa ngay là tôi không sao quan niệm được Phùng Khắc Khoan lại là em cùng cha khác mẹ với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Phùng là học trò của Nguyễn thì nhiều tài liệu đã nói đến (nhưng tôi cũng có một băn khoăn là: Phùng làm văn thơ nhiều, ca ngợi danh nhân tiền bối cũng lắm, mà sao trong văn thơ ông lại vắng bóng ông thầy lớn Nguyễn Bỉnh Khiêm). Còn Phùng là em đồng bào với Nguyễn thì chỉ là truyền thuyết. (Trong sách “Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan”, do Ty Văn hóa Thông tin Hà Sơn Bình xuất bản 1979, Bùi Duy Tân cũng có thái độ nghi ngờ giá trị xác thực của truyền thuyết này. Tôi cũng không tin là như vậy, không tin rằng Phùng Khắc Khoan là em đồng bào cùng mẹ với Nguyễn Bình Khiêm, song theo tôi thì ông Trạng Bùng xứng đáng là người kế cận ông Trạng Trình, tức cũng là một người em tinh thần. Chứ nếu cố tình coi Trạng Bùng - bởi giá trị đích thực của Trạng Bùng đủ để đặt ông ngồi cạnh Trạng Trình - mà còn là hạ thấp bà mẹ cụ Trạng Trình, vì nếu thật có chuyện bà gặp một nông phu thấy có quý tướng liền lấy làm chồng rồi sinh ra Trạng Bùng thì bà cụ thật là một người nhiều tham vọng ham hố).
Trở lại Phùng Khắc Khoan, nhà nho trẻ đất kẻ Bùng sớm đã xác định chí hướng của mình: theo nhà Lê, bỏ nhà Mạc. Đành rằng ngày nay giới sử học đã đánh giá lại nhà Mạc, đã chiêu tuyết ít hoặc nhiều cho triều đại này nhưng việc bỏ nhà Mạc theo nhà Lê của Phùng Khắc Khoan - cũng có nghĩa là từ bỏ lý tưởng của phu tử Tuyết Giang - không có gì đáng chê trách. Vì vào lúc Phùng trưởng thành thì nhà Mạc đã bộc lộ những mặt tiêu cực, mất lòng tin của nhân dân đã đành, mất lòng tin ngay ở hàng ngũ cận thần. Sách cũ và gia phả có ghi là Phùng vào Thanh Hóa theo nhà Lê vào năm 23 tuổi tức 1550. Có lẽ không phải. Ví dụ lịch triều hiến chương có ghi! “Phùng Khắc Khoan theo Lê Bá Lý  quy thuận nhà Lê” và đó là năm 1550, nhưng giáo sư Bùi Duy Tân đã chứng minh được rằng năm 1551 Phùng Khắc Khoan còn sửa sang ngôi nhà đọc sách của mình ở làng quê Phùng Xá đặt tên là Hoằng Đạo thư đường. Và năm 1552, Phùng còn làm bài thơ - ghi là làm ở quê nhà - để mừng thọ cha lúc đó làm tri huyện Đông Lan và con đi thi hương (với chính quyền nhà Mạc) trúng tam trường. Cứ xem xét niên đại những bài thơ có nội dung gắn liền với việc vượt tuyến vào Thanh Hóa như “Ngọ qua Thiên Quan” (Giữa trưa qua Thiên Quan - tức Nho Quan). “Tây Đô hiểu quá” (Buổi sáng qua thành Tây Đô); “Tây hành nhập Thanh hoa dao vọng thanh sơn” (Đi sang phía tây vào Thanh xa trông núi xanh) thì đó là vào cuối năm Quý Sửu 1553, lúc đó ông 26 tuổi. Nhưng vào xứ Thanh ông không tìm đến hành tại vua Lê ông ngụ tại làng Nguyễn Xá, huyện Đông Sơn, sau dời lên làng Khoái Lạc huyện Yên Định rồi ra làng Châu Bái (nay là Hổ Bái) ở đâu ông cũng mở lớp dạy học và tìm giao du với các nhân sĩ địa phương, và có lẽ sâu xa hơn là tìm hiểu phong trào của vua Lê, thực chất là do Trịnh Kiểm lãnh đạo. Có tới 4 hoặc 5 năm, cuối cùng vào năm 1558 ông mới ra thi hương, trường thi đặt ở làng Đa Lộc huyện Yên Định cách làng Châu Bái ông đang cư ngụ khoảng 3 km, ông đã đỗ đầu. Lúc này ông đã 31 tuổi. Có lẽ do thành tích thi cử này mà ông lọt ngay vào mặt Trịnh Kiểm, được Kiểm tuyển dụng vào bộ tham mưu của mình, nhưng chắc không mấy tín nhiệm. Nên sang năm sau, năm 1559 Trịnh Kiểm đem quân ra Bắc để phô trương lực lượng, từ vùng núi Ninh Bình ra vùng núi Hà Nam, Sơn Tây, lên Thái Nguyên vòng sang Bắc Giang, xuống Hải Dương rồi 2 năm sau mới rút trở lại Thanh Hóa. Trong lần này Phùng Khắc Khoan được giao ở lại cùng bộ phận bảo vệ khu căn cứ Yên Trường, Vạn Lại, từng giữ chức Ký lục, chức này được đặt từ thời Lê Thánh Tông, có nhiệm vụ trong chinh chiến theo dõi các tướng lĩnh, ghi lại các hoạt động của những người này xem siêng năng hay lười biếng dũng cảm hay nhút nhát để tâu vua. Sau lại coi giữ quân bốn vệ (binh chế thời này không có tư liệu nên chưa rõ Phùng chỉ huy bốn vệ quân là những vệ nào, tên gọi là gì, có bao nhiêu quân lính). Và từ đó cho tới 1574, tức là có tới 14, 15 năm ông chuyên trách vùng Thanh Hóa. Lúc thì coi việc quân ngũ, lúc thì đi chiêu dụ dân lưu tán trở về quê cũ làm ăn. Chức quan cao nhất là làm cấp sự trung Binh khoa (1572) rồi cấp sự trung Lễ khoa (1574). Các thứ khoa: Lại khoa, Binh khoa, Lễ khoa… là các cơ quan có nhiệm vụ phản biện các chính sách của các bộ tương ứng (Lại bộ, Binh bộ, Lễ bộ…) tức là những cơ quan không có thực quyền thực lực và đứng đầu là chức Đô cấp sự trung. Còn cấp sự trung là vị trí thứ 2, phẩm trật là Thất phẩm tức quan cấp thấp (theo quan chế Lê Thánh Tông và Lê Bảo Thái) trong khi phản biện một chính sách nào đó, ông làm phật ý vua (hay tả tướng Trịnh Tùng?) mà bị giáng chức đầy vào tận miền núi rừng phía Tây tỉnh Nghệ An, đó là đất Thành Nam huyện Tương Dương mà nay là xã Bồng Khê, huyện Con Cuông. Thành Nam nằm trên bờ nam sông Lam, tiếp giáp biên giới với Lào, núi rừng hiểm trở. Chắc là ở nơi heo hút, Phùng chỉ còn biết dùng thì giờ vào việc tìm hiểu địa phương và nhất là nghiên cứu về thảo mộc. Hai trăm năm sau Bùi Huy Bích có đi qua đây, có làm bài thơ vịnh Thành Nam có nhắc đến Phùng Khắc Khoan:
Thành Nam đi chỉ thạch lân lân
Phùng lão hà niên tác trục thần
Thảo ốc dĩ thành giang thượng thủy
Đào nguyên do tưởng khúc trung nhân
Nghĩa là:
Nền cũ Thành Nam đá lởm chởm
Ông già họ Phùng năm nào là bầy tôi bị ruồng đuổi ra đây
Nơi nhà tranh xưa nay thành dòng sông chảy
Mà vẫn nhớ tới người trong khúc hát Đào nguyên.
Khúc Đào nguyên nói ở đây là bài Lâm tuyền vãn còn có tên là Ngư phủ nhập Đào nguyên hay Đào nguyên hành do Phùng Khắc Khoan viết trong thời gian bị đày ra Thành Nam. Khúc ca này được viết bằng quốc âm, theo điệu lục bát, có gửi gắm chút ít tâm sự nhưng chủ yếu là mô tả cách trồng tỉa, hình dáng, mùi vị, màu sắc, công dụng của các loài rau quả. Tác phẩm đã thể hiện một phong vị dân tộc đậm đà, một tình cảm dân dã sâu sắc, đầm ấm, và một sự hiểu biết khá tỷ mỉ sâu rộng về các loài rau quả nước ta.
Không rõ bị lưu đầy ở Thành Nam bao lâu thì ông được gọi về triều (tức vùng Vạn Lại - Yên Trường, Thanh Hóa) cho phục chức. Chỉ biết là tới năm 1580 (ông lúc này 53 tuổi) Vua Lê mở khóa thi hội đầu tiên của triều Lê Trung Hưng tại Vạn Lại, Phùng Khắc Khoan xin dự thi, đỗ thứ hai. Như vậy ông không đỗ trạng nhưng dân cứ gọi là Trạng. Thi xong ông được nâng một bậc quan hàm: lên Đô Cấp sự trung, cũng thấp thôi. Hai năm sau (1582) ông cáo quan về tại Vạn Lại. Năm sau (1583) ông lại được vời ra, làm Hồng lô tự Khanh, tức chức lo việc truyền loa xướng danh ở thị đình hàm ngũ phẩm, tức có tăng lên 2 trật (từ thất phẩm lên ngũ phẩm). Cuối năm 1585 ông được thăng Hữu thị lang bộ Công, hàm tam phẩm rồi lại làm thừa chính sứ Thanh Hóa (đứng đầu trấn Thanh Hóa) như vậy có thể nói là chỉ từ sau khi khai phục 1583 ông mới được tin dùng. Ba mươi năm thử thách! hơi dài hoặc quá dài. Có thể giải thích sự kiện này, có thể vua Lê và Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng thành kiến với quan lại sĩ phu Bắc Hà. Vì khối người là quan tướng nhà Mạc bỏ Mạc theo Lê rồi lại bỏ Lê theo Mạc. Các danh tướng Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn, Lê Khắc Thận chẳng đã thế sao… Quyện, Miễn, Thận, bỏ Mạc về Lê năm 1550, đến 1557 lại bỏ Lê về Mạc. Lê Khắc Thận thì ở lâu hơn, được 19 năm, tới 1572 mới trở về Mạc. Nhưng Khải Khang thì theo về Lê năm 1552, 6 năm sau (1558) lại trở về Mạc. Trong khi đó nhiều kẻ sĩ Bắc Hà vốn theo Lê lại giở giáo theo Mạc như Đặng Huấn người Lương Xá (Chương Mỹ). Năm 1563 bỏ Lê theo Mạc, hay bầu đoàn chúa tôi Trịnh Cối, Lại Thế Mỹ, Nguyễn Sư Doãn, Vũ Sư Thước năm 1570 kéo nhau sang nhà Mạc. Và ngay thày của Phùng là cụ Trạng Trình vẫn ở với nhà Mạc. Cho nên có nhiều lẽ để Lê Trịnh cảnh giác với Phùng và thử thách Phùng. Và chỉ từ 1586 Nguyễn Bỉnh Khiêm qua đời thì hình như Phùng mới được tin dùng và đó là dưới thời Trịnh Tùng (Trịnh Kiểm đã chết từ 1570). Và ngôi sao Phùng Khắc Khoan tuy mọc chậm nhưng khi đã mọc thì sáng rực, nhất là trên bầu trời ngoại giao, phải nói một cách chính xác rằng tên tuổi của Phùng Khắc Khoan được ghi năm lần vào chính sử (ĐVSKTT) thì ở bốn chỗ đều là nói về công tích ngoại giao của ông.
Tới cuối năm 1592, Trịnh Tùng quét sạch nhà Mạc ra khỏi Thăng Long. Tháng 4 âm lịch năm 1593, vua Lê về Thăng Long, nhà Mạc phiêu bạt lên trú ngụ vùng biên giới Cao Bằng, cho người sang nhà Minh tố cáo rằng vua Lê là rởm. Do đó năm 1596, Minh sai sứ đem điệp văn sang ta, “hẹn đại hội để khám xét con cháu nhà Lê có phải thực hay không, hẹn đến tại cửa quan” (TT t4 tr 211). Ngày 29 tháng giêng âm lịch 1576, vua Lê sai Đỗ Uông, Nguyễn Văn Giai lên trấn Nam quan giao thiệp với tuần đạo nhà Minh, coi như tiền trạm, chuẩn bị. Sau đó sai Lê Ngạnh, Lê Hựu và Phùng Khắc Khoan mang 2 kiểu ấn, 1 của nhà Mạc, 1 của nhà Lê tức ấn An nam đô thống sứ ty và ấn An Nam quốc vương cùng 100 cân vàng, 1000 cân bạc, cùng kỳ lão trong nước đến Trấn Nam Quan đợi hội khám. Tháng 2 vua Lê lên cửa ải, nhưng nhà Minh trù trừ thoái thác nên vua lại trở về. Đây là lần thứ nhất Phùng Khắc Khoan tham gia công tác ngoại giao (nhưng không có hiệu quả).
Sang năm sau 1597, lại hội khám. Lần này phái bộ nhà Minh đến hội khám do chức quan Tuần đạo án sát Trần Đôn Lâm cầm đầu. Vua Lê dẫn chủ tướng tới tham dự. Hai bên vui vẻ. Nên một phái bộ Việt Nam do Phùng Khắc Khoan làm chánh sứ được cử sang Bắc Kinh cống nạp và xin sắc phong; đến Bắc Kinh, gặp tiết Vạn thọ của vua Minh, Phùng Khắc Khoan làm một lúc 30 bài thơ mừng vua Minh. Lại bộ thượng thư nhà Minh là Trương Vị đem dâng vua Minh (Vạn Lịch), vua phê “người hiền tại không chỗ nào là không có, trẫm xem tập thơ đủ biết lòng trung thành của Phùng Khắc Khoan. Rất đáng khen”. Rồi sai đưa xuống khắc in để ban hành trong nước (Tàu). Tập thơ này có lời tựa của sứ nước Triều Tiên là Lý Toái Quang. Đó là lần thứ hai Phùng làm công tác ngoại giao, có hiệu quả, vun đắp được sự hòa hoãn của hai bên. Thực ra thì đó là thơ thủ tạc, cái gọi là “lòng trung thành” chỉ là công thức. Nhưng khiến người “Tàu rồi sứ Triều Tiên phải phục là “hiền tài” thì thật vinh dự cho người Việt Nam, nhưng kỳ tích của Phùng trong lần ngoại giao này chính là việc “người vàng” và “tước phong” cho vua ta. Nguyên theo lệ cũ, nhà Mạc phải cống người vàng cao 1 thước 2 tấc, nặng 10 cân và đặc biệt tượng phải cúi đầu, như vẻ thần phục hay chịu tội. Lần đó Phùng Khắc Khoan đem theo cống vật là người vàng nhưng không cúi đầu mà nhìn thẳng bình thường. Bộ Lễ của nhà Minh gây khó dễ, không cho sứ bộ vào chầu vua Vạn Lịch với lý do người vàng không theo mẫu cũ cúi đầu. Phùng đã cãi lại rằng: “Nhà Mạc cướp ngôi danh nghĩa là nghịch, nhà Lê khôi phục lại, danh nghĩa là thuận. Nhà Mạc dâng người vàng cúi đầu thay mình, đã là may lắm. Nay lại bắt nhà Lê theo lệ nhà Mạc thì lấy gì để khuyên việc chiêu an và trường giới việc trích phạt được”. Từ đó trở về sau nhà Minhh phải chấp nhận mẫu người không cúi đầu”.
Về việc tước phong, thì các đời vua Lê trước đều được Trung Quốc phong là An Nam quốc vương… Đến nhà Mạc vì coi như có tội nên về quốc hiệu đổi An Nam quốc ra An Nam đô sứ ty, và tước vua Mạc là Đô thống sứ, cho ấn bạc và phẩm tống nhị. Nay nhà Lê khôi phục, muốn xin phong tước như cũ. Phùng Khắc Khoan đem biểu cầu phong sang cùng lễ vật. Nhưng vua Minh cũng chỉ phong vua Lê là An Nam đô thống sứ ty, cho 1 quả ấn bằng bạc có chữ An Nam đô thống sứ ty. Phùng dâng biểu xin phong vương cho vua Lê:
“Chủ của thần họ Lê là dòng dõi An nam quốc vương, giận nghịch thần họ Mạc cướp ngôi, không nhìn được mối thù ngàn năm nằm gai nếm mật, lo thu phục cơ nghiệp tổ tông. Họ Mạc vốn là bề tôi của họ Lê, giết vua, cướp nước, là người có tội với thượng quốc, mà ngầm cầu lấy chức đô thống. Nay chủ của thần không có tội như họ Mạc, mà lại phải nhận chức như họ Mạc là nghĩa thế nào? Xin bệ hạ xét cho”.
Vua Minh cười và nói: “Chủ của người tuy không ví như họ Mạc nhưng vì mới lấy lại được nước, sợ lòng người chưa yên, hãy cứ nhận đi, sau sẽ gia phong tước vương cũng chưa muộn gì. Người nên kính theo, chớ có từ chối”.
Lý lẽ ngoan cố, nếu sợ lòng người chưa yên thì phong ngay tước vương là một biện pháp cho yên lòng người mà chẳng tốn kém gì. Nhưng họ là nước lớn, lý lẽ của kẻ khỏe hơn nên Phùng đành chịu. Mãi tới năm 1647 nhà Minh mới chịu phong vua Lê là An Nam Quốc vương.
Tính ra, Phùng ra đi từ tháng 4 âm lịch 1597, đến tháng 4 âm lịch năm sau mới đến Yên Kinh, ngày 6 tháng 12 âm lịch năm 1598 mới lên đường về nước cộng 1 năm 4 tháng. Năm ấy ông tròn 70 tuổi.
Trong lần đi sứ này, không những ông đã làm cho triều đình nhà Minh phải trọng vọng, các quan lại thiên triều phải nể vì, mà có thể ông đã chuốc được tình cảm của nhân dân Trung Quốc. Do đó mà ông có dịp hiểu sâu hơn kỹ thuật dệt sa dệt lượt và có thể xin được những giống cây có ích, đem về truyền bá ở quê hương. Đi sứ về, ông được thăng tả thị lang bộ Lại tước Mai Lĩnh hầu. Hai năm sau được thăng thượng thư bộ Công. Năm 1602 lại thăng thượng thư bộ Hộ tước Mai quận công. Nhưng ông xin về trí sĩ và còn sống thêm chục năm nữa, thọ 86 tuổi, mất tháng 9 âm lịch 1613.
Về với dân làng, ông lại lo cho dân làng. Ông đã tự bỏ tiền xây 2 chiếc cầu có mái che ở 2 bên hồ rộng trước mặt chùa Thầy để tăng vẻ đẹp cho thắng cảnh. Ông cho đào mương tiêu nước ở quanh núi Thày và dẫn nước tưới cho đồng ruộng Bùng Xá, Hoàng Xá. Ông dạy dân cách cải tiến nghề đúc cày, rèn bừa, khung dệt. Ông còn hướng dẫn mọi người làm các việc mà ta nói ngày nay là kinh tế gia đình.
Phùng Khắc Khoan đúng là người con quý tử của làng Bùng nên gọi cụ là Cụ Trạng là phải lắm.
Ngoài ra Phùng Khắc Khoan còn là một nhà thơ cả hán lẫn nôm tài hoa, một nhà lý số chiêm tinh mà tới nay chưa được nghiên cứu giới thiệu, một nhà tư tưởng đặc sắc và một nhà thực nghiệm mà ở Hội thảo này nhiều nhà khoa học đề cập tới. Chỉ cần là một nhà như trên đủ để thành một danh nhân, huống hồ ngần nấy nhà hợp lại thì Phùng Khắc Khoan đúng là một danh nhân tiêu biểu của nước Việt Nam và trước hết là của làng Phùng Xá, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất vốn có một bề dày lịch sử đáng trân trọng.

TƯ LIỆU HỘI THẢO HỌ PHÙNG TRONG SỰ NGHIỆP ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC QUA CÁC THỜI KỲ
 
 
TRẠNG BÙNG (1528 - 1613) VÀ ĐẠO GIÁO DÂN GIAN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
LỊCH SỬ - XÃ HỘI ĐẠI - VIỆT THẾ KỶ XVI - THẾ KỶ XVII
 
(Tham luận từ Hội thảo Khoa học Danh nhân văn hóa Phùng Khắc Khoan
tại Thạch Thất - Hà Tây (cũ)
 
Giáo sư Trần Quốc Vượng
 
 
Thế kỷ XVI của Đại - Việt đã nảy sinh ra những con người có “cuộc đời ngoại hạng”. Chỉ xin phép kể tóm tắt trước tiên 3 nhà văn hóa lớn:
- Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (Tân Mùi 1491 - Ất Dậu 1585) quê xứ Đông (Cổ Am - Vĩnh Bảo, Hải Phòng nay) “Mạc triều Trạng - nguyên Tề tướng” (Trạng nguyên Ất Mùi 1535), mà cuộc đời hoạt động chính trị - xã hội - văn hóa như đám Mây Trắng (Bạch Vân) bao trùm phần lớn thế kỷ XVI, nhà lý học lớn nhất đất Việt trời Nam, danh tiếng vang tới tận Trung Hoa… Và Sấm Trạng Trình mấy trăm năm sau, cho đến tận ngày nay, vẫn được dân gian nhắc nhở(1). Sau khi Mạc Đăng Dung mất, cụ dâng sớ xin chém 18 gian thần, không được nghe, đã xin về nghỉ ở quê, dạy học.
- Trạng Kế Giáp Hải, Trạng nguyên niên hiệu Đại - Chính thứ 9 nhà Mạc (1538), bạn vong niên của cụ Trạng Trình, Lại bộ thượng thư, Luân quận công, “có tài văn học, giỏi về ngoại giao” với bài thơ họa “vịnh BÈO” nổi tiếng (1540), “xem bài họa, họ Mao (Bá On), họ Cừu (Loan) không dám tiến 11 vạn quân vào cõi nước ta”(2). Cuối đời Mạc, sau mấy lần dâng sớ vạch các tệ hại chính trị - xã hội, không được nghe, cụ cũng xin nghỉ hưu.
- Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (Mậu Tý 1528 - Quý Sửu 1613). Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1580) thời Lê - Trịnh, làm quan đến chức Hộ bộ thượng thư, Quốc tử giám tế tửu, tặng Thái tể Mai quận công, từng làm chánh sứ sang Bắc quốc 1597 - 1598, thơ văn được in tại kinh đô nhà Minh, giao thiệp với các sứ thần Triều Tiên, Nhật Bản… được vô cùng kính nể.
Tương truyền trong dân gian, ông là em cùng mẹ khác cha với Trạng Trình và chắc chắn là đã từng là học trò Trạng Trình và cũng giỏi lý số. Cuối đời, chúa Trịnh Tùng nghe lũ gian - nịnh thần dèm pha, bắt cụ đi đày.
Trong ba danh nhân ấy, Trạng Trình, Trạng Bùng xuất thân nghiệp Nho, nhà quan, còn Trạng Kế bố mẹ xuất thân nghèo hèn, được một người buôn thuyền “bắt cóc” làm con nuôi rồi cho ăn học, đỗ đạt.
Cả ba ông Trạng Nho này đều không hẳn là nho chính thống mà đều pha chất Đạo học, Lão Trang, Ký Số, Sấm vĩ…
Ba danh nhân văn hóa ấy sinh sống và hoạt động đồng thời với ba nhà chính trị đối ứng / đối lập nhau của Bắc Triều (Thăng Long - Mạc) - Nam triều (Thanh Hoa, Lê Trịnh) rồi sau đó của Đàng Ngoài (Lê - Trịnh) - Đàng Trong (Nguyễn):
- Mạc Đăng Dung (Quý Mão, Hồng Đức 14, 1483 - Tân Sửu 1541) xuất thân dân nghèo đánh cá ở Kẻ Chài (Cổ Trai) ven biển xứ Đông (Nghi Dương, Kiến An cũ, Hải Phòng nay), giỏi đánh vật mà trúng đô lực sĩ, được sung vào đội túc vệ, cầm dù theo xe vua Lê, đầy khôn ngoan và thủ đoạn, cướp ngôi nhà Lê, lập ra nhà Mạc (Đinh Hợi 1527); con cháu khi mất Thăng Long (1592) còn làm vua ở Cao Bằng đến tận năm 1677(3).
- Trạng Trình, Trạng Kế đều đậu Trạng nguyên và làm đại quan đời Mạc. Cũng chỉ ở đời Mạc mới có một vị nữ tiến sĩ Hán học duy nhất của nước ta, cũng đáng xếp vào “những cuộc đời ngoại hạng”, đó là bà Nguyễn Thị Duệ, cũng người xứ Đông (Kiệt Đặc, Chí Linh) đỗ đầu bảng tiến sĩ ở Cao Bằng đời vua Mạc Kính Cung (1593 - 1625) khoa Bính Thìn (1616)(4), làm “cung trung giáo tập”cho cả triều Mạc – Cao Bằng rồi sau cho triều Lê  - Trịnh Thăng Long.
Ta sẽ còn trở lại với vấn đề nhà Mạc vì quê Mẫu Liên là đất Mạc và Mẫu sống ở trần gian đời Mạc, để xem cũng là để xét lại việc Phùng Khắc Khoan bỏ đất Mạc vào xứ Thanh (1553 - 1554) theo Lê – Trịnh; năm 1592 trở lại Thăng Long đất Bắc và “phát hiện” ra Mẫu Liễu Hạnh thời Mạc, trong khi đó Trạng Trình vẫn ở lại đất Mạc nhưng lui về ẩn dật ở Cổ Am, làm Bạch Vân cư sĩ “nhàn một ngày là tiên một ngày”.  Và Trạng Kế cũng đầy bi kịch ở cuối đời Mạc.
- Trịnh Kiểm (Quý Hợi 1503 – Canh Ngọ 1570). Người rất tin dùng Phùng Khắc Khoan (tuy 10 năm sau khi Trịnh Kiểm mất, Phùng mới đỗ đại khoa (tiến sĩ) và đã coi Phùng là “Tương Tử Phòng” (Tương Lương, đại mưu sĩ của Hán Cao Tổ) của mình, biết “nhìn” nhân tài từ khi chưa hiển đạt. Nhưng sau con ông là Trịnh Tùng bắt cụ đi đày ở xứ Nghệ, nơi “Mẫu Liễu” gặp “Đào Lang” lần thứ hai).
Các sách Trung hưng thực lục của các vị đại thần – đại nho bề tôi chúa Trịnh hay / và Trịnh gia thế phả do chính con cháu nhà Trịnh “khai báo” cho vua Nguyễn Gia Long (1802)(5) đều không giấu giếm sự thực về tổ tiên của họ Trịnh và khai rõ như thật, khiến giáo sư lừng danh Hoàng Xuân Hãn phải thốt lên:
“Các sử gia, khi chép gốc tích vua chúa, thường tìm kiếm hoặc bịa đặt những kinh dị để xác chứng cái thuyết THIÊN ĐỊNH hoặc ĐỨC TIN VÀO ĐIỀM LÀNH.
Nhưng đối với họ Trịnh, họ không giấu cái gốc hàn vi ti tiện. Ngay như các sử thần dưới triều Lê – Trịnh cũng đã công nhiên chép sự ấy rõ ràng”(6).
Sự thực về Trịnh Kiểm được chép trong 2 sách ấy, tóm tắt như sau:
1. Tổ 4 đời của Trịnh Kiểm là Trịnh Liễu, tổ quán ở làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Phúc (Vĩnh Lộc) xứ Thanh, nhà nghèo, không dính dáng gì với dòng họ Trịnh “công thần” đầu đời Lê là dòng họ thấy Túy Trịnh Khả hay/ và Trịnh Khắc Phục ở Thủy Chú, huyện Lô Dương (Thọ Xuân). Sau ông dời nhà sang Biện Thượng gần đó, cũng ở tả ngạn sông Mã (cũng gọi là Bồng Thượng, gần Ngã ba Bồng), ngụ cư ở đó 3 đời, sinh ra Trịnh Kiểm. Kiểm là con thứ ba; lên 6 tuổi, bố mất, mẹ con lại kéo nhau về Sóc Sơn. Nhà nghèo, đi chăn trâu, cùng trẻ mục đồng kết thành đội ngũ, luyện tập ở núi như thể binh cơ”.
Ông là “thủ lĩnh” của đám mục đồng đó, hay đi ăn trộm gà vịt cho mục đồng ăn uống rồi sau đó ăn trộm cả trâu, giết thịt khao mục đồng (cùng “mô - típ” văn hóa dân giann với Đinh Bộ Lĩnh). Có người làng thấy, trẻ mục đồng chạy hết, một mình Trịnh Kiểm ở lại “chịu trận”, bị điệu về Đình làng(+). Làng bắt khoán, mẹ và họ Trịnh phải góp tiền đền. Trịnh Kiểm bây giờ 16 tuổi (1518), bị đuổi khỏi làng, phiêu lưu tới tận Bồ Xuyên (Yên Mô – Ninh Bình).
2. Nhà Mạc lấy ngôi nhà Lê (1527), có bầy tôi là Nguyễn Kim ở trang Gia Miêu ngoại, huyện Tống Sơn dòng dõi đại thần Nguyễn Đức Trung – bố vợ Lê Thánh Tông (Trung Lang -  Dụ - Kim), nổi dậy chống Mạc, có căn cứ ở sách Cổ Lũng huyện Cẩm Thủy.
Trong dòng họ Trịnh Kiểm có người anh con nhà bác đã theo Nguyễn Kim. Lúc này Trịnh Kiểm 2 tuổi, có vợ con, ở Bồ Xuyên, vợ họ Trần.
3. Xã Biện Thượng có người họ Lê, tướng quân nhà Mạc, tước Ninh Bang hầu(++). Mẹ Trịnh Kiểm đem con đến xin làm gia thần Trịnh Kiểm ở trại của Ninh Bang hầu, cày ruộng và nuôi trâu ngựa. Hằng ngày Kiểm tập cưỡi ngựa và nhờ đánh bạn với con cái tù binh Chàm(++) vốn làm điền binh ở đó, nên rất tinh về ngựa hay.
Ông đã lấy trộm con ngựa hay của tướng Mạc và chạy trốn lên Cẩm Thủy.
4. Tướng Mạc đuổi bắt, Kiểm đi trốn ở xã Yên Định (Bên hữu ngạn sông Mã đối diện với Biện Thượng ở tả ngạn). Ninh Bang hầu sai bắt mẹ ông, dọa về bảo Trịnh Kiểm phải trả ngựa, nếu không sẽ không tha. Được tin báo, Kiểm về nhà cậu ở Hổ thôn (cạnh xã Yên Định) định đưa mẹ, vợ con đi trốn. Bị phát hiện, Ninh Bang hầu (của Mạc) sai xã trưởng Sóc Sơn, Biện Thượng đem đinh tráng đi bắt. Nhưng xã trưởng Biện Thượng là người cùng họ nên thấy hai mẹ con ông ở hiên sau đang bắt rận, đã ném đất làm hiệu. Trịnh Kiểm xé rào chạy trốn.
Mẹ ông bị bắt, bị Ninh Bang hầu bỏ rọ tre cùng tảng đá lớn trôi sông. Trịnh Kiểm nhờ các bạn Người gốc Chăm giúp ông tìm được thây mẹ đem chôn lén ban đêm.
5. Từ đó Trịnh Kiểm theo Nguyễn Kim cấp cho binh mã, quản đội ngựa. Ông luyện tập binh mã, đóng đồn ở Vạn – Lại, đánh Mạc một trận đã thắng to. Ông (tuy đã có vợ con họ Trần từ trước) được Nguyễn Kim gả con gái là Nguyễn Thị Bảo. Bà này sinh ra Trịnh Tùng.
“Thế là Trịnh Kiểm, trong khoảng chừng mười năm, từ địa vị cố cùng, can phạm, đã vượt lên hàng đại thần (được ban tước Dực quận công năm Kỷ Hợi (1539 – 37 tuổi). Rồi sáu năm sau, chiếm hết quyền văn vũ, sau khi kẻ đỡ đầu (và cũng là bố vợ mình) đã bị một viên hàng tướng nhà Mạc đầu độc (Ất Tỵ 1545). Biết đâu trong vụ này không có tay ngầm của Trịnh Kiểm (suy luận của giáo sư Hoàng Xuân Hãn hoàn toàn phù hợp với ghi chép tại chỗ của giáo sĩ Công giáo xứ Thanh - TQV). Tuy bấy giờ chỉ lấy danh Thái sư Lang quốc công, nhưng kỳ thật đã nắm hết quyền bính như một chúa tế(6). Vua Lê chỉ là bù nhìn và từ đó về sau những ông vua Lê khi được chúa Trịnh bế lên ngôi trên ngai vàng, “Ông” nào lớn nhất cũng chỉ độ 10 tuổi là cùng. Trịnh Kiểm đã có lúc, khi vua Lê mất, muốn lên làm vua. Con ông là Trịnh Tùng đã giết hại vua Lê này rồi lập 2 vua Lê khác; và cứ thế dòng họ Trịnh thấy vua Lê nào định “nhúc nhích” không chịu thân phận bù nhìn là giết luôn. Dựng vua Lê, chẳng qua chỉ cho tròn danh nghĩa “để có thể hội tụ được các nhóm văn thần võ tướng còn nặng óc cương thường đạo nghĩa theo thuyết tôn quân”. Mặt khác, đó cũng là khả năng duy nhất để yên lòng dân chúng”(4). Và sau này, khi thế lực Nguyễn nổi lên ở Đàng Trong và ra mặt chống đối chúa Trịnh (lúc Trạng Bùng còn đang sống và làm đại thần triều Lê Trịnh và Mẫu Liễu “giáng trần lần thứ 2, thứ 3, chúa Trịnh càng cần giữ vua Lê ở ngôi “hư vị” để giữ cho triều đình của họ Trịnh cái vẻ danh nghĩa, cái “chính thống”, với cả Bắc quốc – Minh – Thanh ở Bắc, với cả chúa Nguyễn ở Nam cùng cai quản “bách thần” trong đó có Mẫu Liễu Hạnh (chỉ có VUA – không phải CHÚA) mới có quyền “phong sắc” cho Mẫu Liễu Hạnh và bách thần. (Sắc phong của Mẫu vào các niên hiệu Dương Hòa đời Lê Thần Tông, Chính Hòa đời Lê Huy Tông (cuối thế kỷ XVII). Chúa Trịnh Kiểm rất tin phong thủy, rất cẩn thận việc mồ mả tổ tiên… Các bà phi của các chúa Trịnh rất chăm lễ bái và hưng công sửa sang, xây dựng ĐỀN CHÙA, MIẾU MẠO.
- NGUYỄN HOÀNG (Ất Dậu 1525 – Quý Sửu 1613). Trái với hai nhân vật chính trị kiệt xuất trên xuất thân nghèo hèn, Nguyễn Hoàng xuất thân từ một “vọng tộc” ở Gia – Miêu, Tống Sơn, Hà Trung, dòng dõi công thần từ đời Lê Lợi và con cháu đời đời làm công thần triều đầu Lê, đặc biệt từ đời Lê Thánh Tông (vợ vua là con gái Nguyễn Đức Trung, cụ của Nguyễn Kim, kỵ của Nguyễn Hoàng).
Cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI, khi Lê Thánh Tông rồi Lê Hiến Tông nằm xuống thì từ triều đình đến thôn dã “loạn” ngay.
“Họa phúc hữu môi phi nhất nhật”…
(Họa phúc mối mầm đâu một chốc)
                                                                     (Ức Trai)
Thế kỷ XVI – XVIII là một thời loạn lạc, đảo lộn về xã hội và nội chiến liên miên giữa các thế lực chính trị.
Nguyên nhân sâu xa phải tìm ở cuối thế kỷ XV, ngay trong cái thời gọi là “thịnh trị của nhà Lê – đời Lê Thánh Tông – như các vị sử gia chính thống từ Lê Trịnh đến ngày nay chép; ai cũng ca ngợi thời Hồng – Đức là thời có vua giỏi, tôi hiền”. Riêng tôi, từ lâu đã không nghĩ thế. Chỉ xin kể vài chuyện:
1. Ngay năm đầu lên ngôi (Quang Thuận 1, 1460), Lê Thánh Tông lấy cớ vợ vua Lê Lợi tên là Trần (Phạm Thị Ngọc Trần) đã ra lệnh bắt họ Trần dòng họ thân Dân làm nên đại chiến công bình Mông – Nguyên vang lừng thiên hạ, Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn được giới lịch sử quân sự toàn thế giới (do Hội khoa học hoàng gia Anh – Viện Hàn lâm khoa học triệu tập họp Hội nghị ở Lon – đon 1984) đã suy tôn Ngài là đứng đầu trong 10 danh tướng thế giới cổ kim – đổi họ sang họ Trịnh(7).
Loạn đầu tiên thế kỷ XVI là loạn TRẦN TUÂN (1511) ở Sơn Tây quê cụ Trạng Bùng. Loạn lớn nhất đầu thế kỷ XVI là loạn TRẦN CẢO (hay CAO, 1516) ở Đông Triều, Yên Tử xứ Đông quê hương tổ tiên (theo sách này) hay quê hương thứ hai (theo sách khác) của nhà Trần và “tự xưng” là cháu chắt nhà Trần. Loạn Trần Cảo (cùng sau đó con là Trần Thăng (hay Cung) phát triển lên xứ Lạng nơi Mẫu cũng “xuất hiện”) trên thực tế đã làm sụp triều Lê (Mạc Đăng Dung chỉ là người khéo sử dụng THỜI CƠ mà vươn dậy rồi cướp ngôi Lê 1527).
2. Vua Lê Thánh Tông là người hiếu sát, ngay đầu tiên đã giết Cung vương Khắc Xương (1476) là anh ruột, người đã “cố ý từ chối ngôi vua” để cho em (Thánh Tông) làm vua(8). Sử thần nhà Lê mà còn “dám” bình luận Lê Thánh Tông “tình nghĩa anh em thiếu lòng thân ái, đó là chỗ kém”(9).
3. Cũng ông vua này là người hiếu sắc, sử thần Vũ Quỳnh “dám” bình: “Vua nhiều phi tần quá nên mắc phải bệnh nặng (bệnh giang mai? TQV). Trường – lạc hoàng hậu (mẹ Lê Hiến Tông, họ Nguyễn Gia – Miêu, con Nguyễn Đức Trung) thì bị giam lâu ở cung khác, đến khi vua ốm nặng mới được đến hầu bệnh, bèn ngầm đem thuốc độc trong tay sờ vào chỗ lở loét, bệnh vua càng thêm nặng (rồi chết)(10).
Việc này sinh ra hai chuyện:
1) Vua chết sớm, 56 tuổi.
2) Cả dòng họ Nguyễn Gia Miêu thù hận, nên khi Hiến Tông, con bà Trường Lạc họ Nguyễn lên ngôi, họ Nguyễn lộng quyền. Vua Uy Mục (Giáp Tý 1504) giết bà Trường Lạc “ruồng đuổi người họ tông thất và công thần về địa phương Thanh Hóa”(11) khiến Nguyễn Văn Lang (con Nguyễn Đức Trung (ông nội (hay bố), tùy sách chép) Nguyễn Kim) ôm hận, nổi loạn (có Lương Đức Bằng (thầy học Trạng Trình, bố Lương Hữu Khánh – bạn thân Phùng Khắc Khoan) viết hịch kể tội Uy Mục) giết Uy Mục, lập Tương Dực (1509). Người Minh gọi Uy Mục là vua Quỷ, Tương Dực là vua Lợn.
Sau khi Thánh Tông, rồi Hiến Tông mất (1506) là cả một thời kỳ các dòng họ ngoại thích (họ các vợ vua Lê) hoành hành và dòng họ các công thần (cũng đồng thời là ngoại thích) tranh nhau quyền lực.
4. Nổi bật lên trong triều đình Lê suy đốn đầu thế kỷ XVI là sự tranh giành quyền lực của hai dòng họ công thần mà Lê Quý Đôn đã nhận ra(12):
“Họ Thủy Chú (Trịnh) và họ Tống Sơn (Nguyễn) đều là họ công thần hạng nhất, danh vọng trên đời, mà bỗng dưng sinh hiềm khích. Nhà vua (Chiêu Tông) hòa giải cũng không yên. (Nguyễn) Hoàng Dụ (theo Lê Quý Đôn là anh Nguyễn Kim, còn theo các sử sách khác thì là cha Nguyễn Kim. TQV chú) cử binh đánh Trịnh Tuy, Tuy chạy về Lôi Dương. Trần Chân là con nuôi (Trịnh) Duy Sản, nên bênh Trịnh Tuy, bèn cử binh đánh Hoằng Dụ, Hoằng Dụ chạy về Tống Sơn. Thế là chỉ còn một mình Trần Chân lưu lại triều đình làm phụ chính.
Vua thấy hai họ đánh nhau, chưa phân đằng nào phải trái, lại nghe lời Trần Chân, sai (Mạc) Đăng Dung dẫn thủy quân đuổi đánh Hoằng Dụ ở Thanh Hóa. Hoằng Dụ đưa tờ thư và bài thơ cho Đặng Dung, Đặng Dung bèn án binh bất động, nên Hoằng Dụ được chạy thoát”.
Mạc Đăng Dung rất khéo lợi dụng mâu thuẫn giữa các dòng họ công thần ngoại thích này mà leo dần lên ngôi vị cao ở triều đình Lê cuối:
- Xin cho con Mạc Đăng Doanh cưới con gái Trần Chân làm vợ.
- Chiêu Tông nghe lời dèm giết Trần Châu.
- Mượn thế các “giặc làm loạn” để giết bớt các đại thần cũ của vua Lê.
- Năm 1518 Nguyễn Hằng Dụ chết. Nguyễn Kim cũng bỏ vào xứ Nghệ. “Mạc Đăng Dung lại càng tung hoành(13), “triều đình ai cũng phục(14)”.
- Năm 1524 Trịnh Tuy chết. (Trước đó Trịnh Duy Sản đi đánh “giặc Trần Cảo” đã bị Trần Cảo bắt sống đem vè hành dinh Vạn Kiếp giết chết(15) (1516). Cũng năm đó (1516) chú Nguyễn Hoằng Dụ là Văn Lự ngầm hẹn với Trịnh Duy Đại cùng vào trước mặt vua, tâu xin hòa giải giữa hai dòng họ rồi bắt Trịnh Duy Đại đem chém, bêu đầu ngoài cửa thành…(16)).
Thế là dòng họ Trịnh Thủy Chú Lôi Dương hết thời vận. Vậy cố nhiên trong triều Lê cuối chỉ còn Bình chương quân quốc trọng sự, thái phó Nhân quốc công Mạc Đăng Dung (1524) cùng vây cánh họ Mạc.
Mạc Đăng Dung lên ngôi vua (1527) là một tất yếu lịch sử sau cả một chuỗi dài sự biến “trong triều ngoại nội” như vậy. Đây là một ông vua bình dân, chính sự tốt, ngoại giao khéo léo, cởi mở về tôn giáo – tín ngưỡng, tư tưởng, “mở cửa” để buôn bán trong ngoài nước phát triển.
5. Ai cũng biết và cũng ca ngợi chiến công Lê Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, lập thêm đạo Quảng Nam (từ Quảng Nam đến Phú Yên nay) là đạo thứ 13 của nước Đại Việt. Song các sử gia “chính thống” lại “quên” hậu quả lịch sử “tiêu cực” của “chiến công” đó:
- Với “chiến dịch” này, Lê Thánh Tông chém giết hơn 4 vạn thủ cấp, bắt sống hơn 3 vạn người Chăm, kể cả vua Chăm “Trà Toàn” cùng vợ con(17).
Hiếu sát đến thế là cùng!
Ba vạn tù binh Chăm bắt về, để ở triều đình một số, một số chia cho các đại thần, các đền chùa làm gia nô, một số đi làm “điền binh” ở các Sở đồn điền sau trở thành các làng Chăm Việt hóa với nhiều tín ngưỡng Chăm, như thờ NỮ THẦN SỨ SỞ, thờ Đế Thích (Indra).
Cái giá phải trả:
Trà Toại và vợ con bị an trí 30 năm ở ngoài cửa Bảo Khánh (khu Giảng Võ nay).
Đầu thế kỷ XVI (Cảnh Thống), Trà Phúc lấy trộm hài cốt của cha là Trà Toạn trốn về nước, “đến đây các nô người Chiêm của các nhà thế gia công thần (và) ở các điền trang cũng đều trốn về nước”(18). Ai còn ở lại, thì họ xui các bạn bè, quan lại người Việt của họ “làm loạn”.
Đứng ngay sau TRẦN CẢO là PHAN ẤT – nguyên là gia nô người Chiêm của Trịnh Duy Đại.
Bạn bè Trịnh Kiểm, như đã nói, là ba cha con người Việt gốc Chiêm ở Yên Định.(+)
“Loạn người Chiêm” và tín ngưỡng Chăm ở miền Bắc Đại Việt là một sự kiện lớn làm nghiêng ngửa triều Lê – Nho cuối. Ta khó lòng chỉ “đổ tội” cho mấy ông vua Uy Mục, Tương Dực…
(Tất nhiên mấy ông vua này cũng chẳng ra gì, song xin nhớ chính Tương Dực trung phong cho Nguyễn Trãi là Tế văn hầu chứ không phải là Lê Thánh Tông. Ông này tuy có “phục hồi” cho Nguyễn Trãi nhưng lại hạ Ức Trai xuống tước “bá”. Cũng không phải Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ cứu mẹ con Tư Thành (Thánh Tông) mà là Trịnh Khả(19). Lê Thánh Tông nhớ ơn đó, rất ưu đãi con cháu họ Trịnh, vì vậy mà họ Trịnh rất lộng quyền ở đầu thế kỷ XVII ).
6. Điều quan trọng hơn nhiều, gây hậu quả nghiêm trọng ở thế kỷ XVI là việc nhà Lê mô phỏng triều Minh xây dựng một nền quân chủ - nho giáo độc tôn, chuyên chế. Chẳng phải bỗng dưng mà tác giả Việt Nam Phật Giáo sử luận hạ lời bình: Nhà Lê thắng Minh về quân sự nhưng lại thất bại với Minh về văn hóa(20).
Khi viết về gốc tích và hành xử Lê Lợi(3), tôi xã trích dẫn cuốn sách rất đáng tin cậy Lam Sơn thực lục(21) do chính Lê Lợi sai các văn thần – trong đó có Nguyễn Trãi ghi lại và nhà vua đề tựa, nói về những sự việc Lam Sơn phán tích, trích những đoạn liên quan đến tâm thức Lê Lợi mà các sử giả “chính thống” cố tình “lờ” đi (nhưng Lê Quý Đôn lại nhấn mạnh): Đó là việc Lê Lợi rất tin thuật phong thủy, tin cả tín ngưỡng Hà Bá (thần Phổ Hộ) mà quẳng vợ mình (mẹ Thái Tông) xuống sông làm vợ Thần Sông.
Nhưng thắng lợi xong, ra Thăng Long – Đông Kinh làm vua, là ông ra lệnh cấm ngay “vu tràng tả đạo”. (Song các đại công thần như Lê Sát vẫn làm lễ hiến tế “ngựa trắng”, một tín ngưỡng Aryan cổ thờ Thần Mặt trời được hội nhập từ Ấn Độ sang ta đã lâu(22) và Lê Ngân vẫn “thờ Phật bà Quan Âm trong nhà để cầu cho con gái được vua yêu”, nuôi cả mụ đồng và thầy phù thủy họ Nguyễn, họ Trần trong nhà. Bị cáo giác, Lê Thái Tông đã giết ông, tịch thu gia sản, giáng con gái ông từ Huệ phi xuống làm tu dung, mụ đồng họ Nguyễn thì bị đày ra nơi xa, thầy phù thủy là Trần Văn Phương thì phân làm lính ở chuồng voi(23)).
Đến Lê Thánh Tông thì việc độc tôn Nho giáo lại càng quá quắt. Sử quan chính thống của ông vua này là Ngô Sĩ Liêm bình luận về việc Hồ Quý Ly chê Chu Hi, Trình Hạo và Tống Nho như sau:
“Chu tử sinh ở cuối thời Tống, nối sau các tiên Nho Hán Đường, đã chú giải 6 kinh, mới ngược dòng tìm nguồn, hiểu được ý của thánh nhân, sách kinh, rõ được đạo thánh nhân lời giải, hết sức nghiền nghĩ, thấu lẽ vào lòng, nói ra rõ ràng, chỉ dẫn xa rộng, gọi là tập đại thành của chư Nho mà làm khuôn mẫu cho hậu học. Huống chi lại có Trình tử xuống ở trước, mà Chu tử bổ sung những chỗ chưa đủ ở sau, thì nghĩa đã tinh lắm. Người sau chỉ mở cho rộng thêm, chuốt cho bóng thêm, có thế mà thôi, sao lại được chê cãi!”(24).
Ai cũng biết những điều sau đây, chỉ xin nhắc lại để nhớ: - Các vua Lý – Trần sủng cả Phật – Nho – Đạo và rất khoan nhượng với tín ngưỡng đa thần dân gian, văn hóa dân gian.
- Vua Lê theo nhã nhạc, phẩm phục, tang lễ… Trung Hoa, cấm điệu hát dân gian “Lý Liên” (Rí Ren), Lê Thánh Tông đuổi chèo ra khỏi cung đình “vì hay châm biếm người trên” (1465)(25). Ông mở rộng Văn miếu – Quốc Tử Giám (1483) thi Nho thường xuyên(+), bắt chước Trung Hoa “bảng vàng bia đá đề danh” các ông tiến sĩ Nho (1484), mở rộng hoàng thành (1490), làm Đình (1491), định lệ tế Khổng Tử (tế Đinh) Xuân Thu nhị kỳ ở các phủ huyện (1472), ép Sử quan, Sử viện phải cho vua xem nhật lịch – quốc sử (1467) một việc mà không vua nào được quyền xem. Ấy thế nhưng lên ngôi mới một năm ông vua này đã ra lệnh cấm dân làm mới chùa Phật, đạo quán(26). Hai năm sau (1463), ông đã ra lệnh cấm các người làm nghề bói toán, đồng cốt cùng Thiền sư, Đạo sỉ toàn quốc từ nay về sau không được giao thiệp, chuyện trò với người trong cung đình.(27)
Ông và con ông (Hiến Tông) hễ mở miệng hay hạ chiếu chỉ là trích dẫn đầy những Tứ thư, Ngũ binh của Nho giáo Trung Hoa.
Tinh thần khai phóng, cởi mở, “Tam giáo tịnh hành”, “quốc gia mở nước tự có pháp độ riêng, không cần mô phỏng Đường Tống” của nhà Lý, nhà Trần đã biến mất, chỉ còn lại sự độc chuyên tư tưởng Nho – Tống để độc quyền quân chủ. Thế “lưỡng phân văn hóa” (Dualisme culturel) giữa cung đình dân gian dần dà sâu sắc.
Và hậu quả lịch sử thì rành rành ra ngay từ đầu thế kỷ XVI: thời đại của Trạng Trình – Mạc Đăng Dung và cả Trạng Bùng – Mẫu Liễu Hạnh:
1) Thuận sĩ, Sấm vĩ phát triển. Đạo giáo dân gian phát triển. Loạn Trần Tuân ở xứ Đoài, tướng sĩ đều “mặc áo đỏ (Đạo giáo) TRẦN CẢO, “Xã đường thiên hương quan” (theo Minh sử) hay “thuần mỹ điện giám” (theo Toàn thư Đại Việt thông sử) nổi dậy từ chùa Quỳnh Lâm vì “thấy lời Sấm truyền trong dân gian là “Phương Đông có khí thiên tử”, “có người Chăm giúp rập”, “Cào mình mặcáo đen, quân lính đều cạo trọc đầu, tự xưng là Đế Thích (Indra) giáng sinh”, đã từng chiếm hết xứ Đông, xứ Lạng, chiếm được(28) cả kinh thành (1516).
Lại đến lượt TRẦN CÔNG VỤ ở xã Phạm Tùng huyện Gia Phúc (Gia Lộc) xứ Đông CỒ KHẮC XƯƠNG ở xã Nhân Vũ huyện Thiên Thi (Ân Thi) xứ Nam tự xưng là Thiên – bồng, Thiên – vũ, (Đạo giáo dân gian) năm 1517.(29)
lạ lùng không, khi nhà nho nào chả thuộc lòng các câu “kinh điển” Nho giáo như “Tử bất ngữ QUÁI, LỤC, LOẠN, THẦN” “QUỶ THẦN KÍNH NHI VIỄN CHI”, v.v… nhưng ở thế kỷ XVI thì hai ông tiến sĩ Nho VŨ QUỲNH  và KIỀU PHÚ riêng rẽ nhau hay hợp tác với nhau san định Lĩnh nam chính quái, ông hương cống Nho NGUYẾN DỮ (có Phùng Khắc Khoan là bạn thân nhuận chính) viết Truyền kỳ mạn lục. Phùng Khắc Khoan 3 đời Nho lại chơi với đạo sĩ Vân Canh, giỏi phong thủy, thuật số, sấm, v.v… Cha làm thơ khuyên ông chuyên học Nho, đừng theo Đào Tiềm, ông cung kính làm thơ phúc đáp: Vâng lời cha con vẫn học Nho song cũng phải học phong cách thơ ca ông Đào chứ ạ!(30)
Trạng Trình là bậc đại Nho nhưng cũng đầy chất lý số, sấm vĩ, Lão – Trang. Tôi hoàn toàn chia xẻ ý kiến của GS Trần Lê Sáng suy đoán: “Chắc rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dạy học không theo chương trình thi cử, ông cũng đã truyền Đạo học cho học trò và những học trò xuất sắc nhất như Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ, Lương Hữu Khanh… (TQV) lại chịu ảnh hưởng nhiều nhất”. (30).
Có lẽ nên nói thêm là thày học Trạng Trình là Lương Đắc Bằng tuy cũng Nho mà cũng Đạo, và đã truyền Thái Ất thần kinh (hay Thái Huyền Kinh) cho Nguyễn Bỉnh Khiêm. Phùng Khắc Khoan đã lần đầu tiên Diễn nôm Dịch lý và cũng làm Sấm ký.
2) Nho giáo xếp hạng Tứ dân theo thứ tự SĨ – NÔNG – CÔNG – THƯƠNG, cho DÂN CHÀI và KÉP HÁT ra rìa “bất lập chung chi địa” (không mảnh đất cắm dùi), “xướng ca vô loài” v.v… thì ông dân chài 3 đời đánh các (BÍNH – HỊCH - DUNG).
Mạc Đăng Dung lên làm vua, xây Dương kinh ở miền bãi biển xứ Đông. Hàng loạt dân chài ven biển Sơn Nam quê Mẫu Liễu Hạnh theo tôn giáo mới du nhập vào Đại Việt năm 1533 là ĐẠO THIÊN CHÚA, với Đức mẹ nữ vương Eve Maria và chúa hài đồng Jesus Christ.(31)
Còn ông kép hát giỏi giang ĐÀO DUY TỪ - người đương thời với Trạng Bùng nhưng trẻ hơn – không được đi thi Nho dưới thời nam triều Lê – Trịnh thì đã bỏ xứ Thanh vô đàng trong theo chúa Nguyễn, cùng chúa tiên Nguyễn Hoàng, chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên tạo nên “những cuộc đời ngoại hạng” khác, đắp “Lũy Thầy để cản quân Lê Trịnh, mở cảng biển cửa Tùng, cửa Việt, cửa Eo và nhất là cảng Hội An cho thuyền tầu ngoại quốc ra vào thông thương, làm giàu có cho Đàng Trong và tiếp tục quá trình Nam tiến” “Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng”.
Chúa Tiên thì sử sách Đàng Trong ca ngợi:
“… Từ đó (1558 Trấn thủ Thuận Hóa, 1570 kiêm trấn thủ Quảng Nam - TQV) Đoan quốc công Nguyễn Hoàng thu phục hết quân dân hai xứ Thuận Quảng. Voi ngựa, vàng, lụa, thóc, tiền sung dùng vào việc công để ban phát ân đức, chiêu võ muôn dân, thân yêu trăm họ… Dân địa phương hai trấn được an cư lạc nghiệp”(32).
Và sử quan chính thống thấy ở Đàng Ngoài cũng ngợi ca: “Nguyễn Hoàng Trị tự nhậm mấy chục năm (1558 - 1613)”, chính lệnh khoan hòa, thường ban ơn huệ, dùng phép công bang, khuyên răn bản hộ, cấm chấp những kẻ hung ác, dân hai trấn đều cảm lòng mến đức, thay đổi phong tục, chợ không nói thách, dân không trộm cắp, cổng ngoài không phải đóng, thuyền buôn nước ngoài đến đều buôn bán, đổi trao phải giá, quân lệnh nghiêm cản, mọi người ra sức”.(33)
Như vậy Nguyễn Hoàng, từ một người dòng dõi công thần nhà Lê, sợ bị Trịnh Kiểm giết, đã dùng kế của cậu ruột (Nguyễn Dĩ) giả mắc bệnh tâm thần rồi nói với chị - là vợ Trịnh Kiểm – cho vào Thuận Hóa là xứ “Ô Châu ác địa”, cầu mong thoát thân, do thời thế và vị thế địa – văn hóa “Hoành sơn nhất dài khả di chung thân” mà trở thành một cuộc đời ngoại hạng” ở thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII. Nhân tài xứ Thanhh – Nghệ sau vụ hai anh em Trịnh Cối – Trịnh Tùng tranh quyền khi Trịnh Kiểm mất (1570), sau các vụ chúa Trịnh lộng quyền giết vua đã bỏ vào Nam theo chúa Nguyễn rất nhiều.
Nhưng Trạng Bùng thì ở lại phục vụ Trịnh Tùng và cuối đời, chính Trịnh Tùng bắt cụ đi đầy. Cụ Trạng khi đi đầy viết Lâm tuyền vãn, ca ngợi cảnh Sơn Lâm, thú suối rừng. Và xin nhớ: Mẫu Liễu Hạnh cũng “hiển linh” ở núi rừng xứ Lạng, xứ Thanh (Sòng Sơn, Phố Cát) xứ Nghệ (Sóc Sơn) và sắc phong cho Mẫu của các vua Lê – Nguyễn đều “cho phép” Mẫu cai quản “sơn lâm”!
Trạng Trình, Trạng Kế thì ở lại với Bắc triều nhà Mạc song cũng đầy bi kịch và từ Nho quay về Đạo.
*
*     *
Nhà Mạc có “tệ hại” như các sử gia chính thống xưa nay chép không?
Từ thập kỷ 60, cố họa sĩ Nguyễn Đồ Cung, Viện trưởng Viện Mỹ thuật Việt Nam cùng tôi đã không nghĩ như vậy. Ông và các cộng sự đã phát hiện ra cả một nền mỹ thuật Mạc độc đáo, thể hiện ở đình, chùa, đền, miếu… Không có một ngôi chùa đền, danh lam nào ở miền Bắc mà không có bàn tay nhà Mạc, đời Mạc tu sửa. Mạc Ngọc Liễn tự coi là Đạo sĩ và cùng vợ sửa các đền chùa. Mộ vợ Mạc Đăng Doanh, con gái Trần Chân đã trở thành “Đất Thánh” (bia Bà) nổi tiếng ở Thanh Oai (Hà Tây nay). Gốm sứ Mạc có ghi niên hiệu, tên người thợ chuốt, tên người đặt làm, để cúng dâng cho chùa nào… “Công dân loại ba” của Quân chủ Nho giáo (CÔNG) mà sao được tôn trọng nhân cách như vậy? Sử quan Lê - Trịnh thi nhau chửi nhà Mạc là “ngụy triều” nhưng như Lê Quý Đôn cùng nhiều sử thần Lê - Trịnh cũng phải viết:
Năm 1532: “Mạc Đăng Doanh thấy trong nước còn nhiều trộm cướp, bèn ra lệnh cấm nhân dân các xứ không được mang gươm giáo, dao nhọn và các đồ binh khí đi ngoài đường. Nếu kẻ nào trái lệnh, cho pháp ty bắt trị tội.
Từ đấy, những người đi buôn bán chỉ đi tay không, không phải đem khí giới tự vệ. Trong khoảng mấy năm, trộm cướp biệt tăm, súc vật chăn nuôi tối đến không phải dồn vào chuồng, cứ mỗi tháng một lần kiểm điểm thôi. Mấy năm liền được mùa, nhân dân bốn trấn đều được yên ổn”(34).
An ninh tốt, nông – công – thương nghiệp đều phát triển. Lại xây dựng Dương Kinh ở miền biển, ở cửa buôn bán với nước ngoài. Gốm sứ Mạc tìm thấy trên toàn Đông Nam Á (Xem Phụ lục). Quán hàng mọc lên suốt dọc đường thiên lý, tấp nập buôn bán với các cô hàng bán quán xinh đẹp, có tiền khiến nhiều nho sĩ ngẩn ngơ, chọc ghẹo. Thực tế này cũng được phản ánh vào truyện Mẫu Liễu Hạnh hay “hiện thân” làm cô hàng, bà hàng bán quán. Nhưng sử gia chính thống, kể cả 2 ông GS viết chuyên luận về Trạng Bùng đều chửi nhà Mạc hèn hạ đầu hàng, dâng đất cho nhà Minh(35).
Các ông quá tin vào sử sách chính thống của Lê – Trịnh là kẻ đối lập với Mạc.
Sao các ông không để ý là Lê Quý Đôn không nói một câu về việc Mạc cắt đất cho Minh?
Sao các ông không trích dẫn – như Lê Quý Đôn đã trích dẫn – bài Bố cáo của tướng Mạc Phạm Tử Nghi cho các trấn năm 1546:
“Nước ta từ vua Thái Tổ (Mạc Đăng Dung) mở nền, thực trời cao sinh đức. Được danh, được vị và được lộc, lịch số nối truyền, thống nhất cả phong tục cõi bờ, xuân thu tổng quát. Kẻ nào không phục, liền đánh dẹp ngay…
Các châu Khâm – Liêm (biên giới Trung  - Việt) sợ hãi không dám liên can!(37).Phạm Tử Nghi đã mang quân sang đánh phá Khâm Liêm và sau khi chết, đã “hiển thánh” và được thờ cúng suốt miền ven biển Quảng Ninh – Hải Phòng cho đến rất gần đây.
Sao các ông không giở xem Minh sử như GS Đào Duy Anh thầy tôi – và tôi đã giở để thấy chính sử nhà Minh không hề chép việc “dâng đất” năm 1528 như Toàn thư bịa tạc(38), còn việc “dâng đất” năm 1540 thì khi vua Minh sai quan “cát địa sứ” cầm “giấy dâng đất” của Mạc Đăng Dung xuống “thực địa” mới té ngửa người ra là một số chỉ có tên mà không có đất, còn một số khác là đất của Minh từ lâu rồi! Hóa ra Mạc Đăng Dung chỉ giả vờ thần phục theo chiến lược ngoại giao cổ truyền Đinh – Lê – Lý – Trần – Lê: Thần phục giả vờ, Độc lập thực sự” (Vassalité fictive, Indépendence réelle).
Hoặc các ông không tin tôi và thầy tôi thì các ông phải tin Thần Siêu của thế kỷ XIX chứ! TrongPhương đình Dư địa chí, về tỉnh Quảng Yên, cụ Nguyễn Siêu đã bảo: “Đời sau lấy việc cắt đất bắt tội nhà Mạc”, “nay tôi xét các sách… (Tàu, Ta đủ cả), “cụ khảo chứng 3 trang đặc để xóa án việc nhà Mạc cắt đất: nào có cắt đất nào đâu, toàn là đất của Trung Hoa từ trước đó lâu rồi!(39).
Từ cụ “Thần Siêu” qua cụ Đào Duy Anh, cụ Nguyễn Đỗ Cung đến tôi chẳng ai là con cháu họ Macl cả mà bênh vực cho tiên tổ nhà mình. Chúng tôi khảo chứng là vì KHOA HỌC. Có thế thôi!
3) Nho giáo “Trọng nam khinh nữ”. Lê Thánh Tông là người đầu tiên bắt vợ để tang chồng 3 năm như để tang bố mẹ, theo kiểu cách Trung Hoa, từ năm đầu Hồng Đức (1470)(40). Lê Thánh Tông ban 24 huấn điều Nho giáo, bắt hàng tháng, đàn ông ra Đình nghe giảng (như sau này nghe giảng thập điều) của Minh Mạng. Ông này cũng độc tôn Nho trở lại ở cuối mùa!
Thì sự phản ứng của thế kỷ XVI là ngược lại: Tục thờ MẪU, thờ NỮ THẦN phát triển! Nữ giới Việt Nam, từ thế kỷ XVI đến nay, trên thực tế là người làm chủ các CHÙA, ĐỀN, từ đời Mạc Ngọc Liễn các bà phi – tần, vợ đại quan đua nhau đứng rahội chủ hưng công tu tạo các chùa, đền. Bia chùa, đền, chuông chùa, đền Phổ, cột chùa, đền Việt ghi đầy tên các “tín vãi” ở chùa Keo, chùa Minh xứ nam, chùa Thày xứ Đoài… Chùa Hương với sự tích Bà chúa Ba với động Hương tích có tượng Phật bà Quan âm, với đền Cửa Võng thờ Mẫu thượng ngàn…là bắt đầu thế kỷ XVI (Thiền uyển tập anh ngữ lục chép Sự Phật đời Lý – Trần không hề viết một chữ nào về chùa Hương). GS Trần Lê Sáng trong sách về Trạng Bùng – Phùng Khắc Khoan đã nói đến các “cuộc đời ngoại hạng” của các bà mẹ Nguyễn Bỉnh Khiêm, bà mẹ Phùng Khắc Khoan… phóng khoáng, tự do, tự chủ “nguyên mẫu trần gian” của Mẫu.
Đỉnh cao nhất của việc thờ MẪU ở Đại Việt là sự xuất hiện bà mẫu cao nhất của các bà mẫu, “tối linh chi linh”(41) “thượng thượng thượng đẳng tối linh tôn thần”(42) là MẪU LIỄU HẠNH ở thế kỷ XVI mà giới khoa học Việt Nam vừa tiến hành cuộc Hội thảo bước đầu ở Hà Nội ngày 2 tháng 6 năm 1992. Người đầu tiên phát hiện đề cao bà Mẫu Liễu Hạnh không phải ai khác ngoài cụ Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, khi cụ đã 70 tuổi ngoài, từ cuộc gặp gỡ giữa Phùng sứ và Mẫu Liễu Hạnh ở xứ Lạng năm 1597 – 1598 đến cuộc hội ngộ xướng họa thơ ca giữa Mẫu Liễu Hạnh và Trạng Bùng, cử nhân Lý, tú tài Ngô ở Tây Hồ sau thời gian cụ Phùng đi sứ về (1598 - 1607). Và sau đó ghi lên giấy trắng mực đen chuyện Mẫu Liễu Hạnh và cụ Trạng Bùng là Hồng Hà nữ sử Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748) với Vân Cát thần nữ truyện trong sách Truyền kỳ tân phả.
Việc phá đền sòng – Phố Cát của Mẫu Liễu Hạnh rồi lại phải xây lại Đền cho Mẫu ở thời Lê – Trịnh khoảng niên hiệu Dương Hòa (1635). Cảnh Trị (1663) là một thất bại đắng cay của nền Quân chủ Nho giáo trước tín ngưỡng dân tộc – dân gian về Mẫu Liễu Hạnh.
4) Cũng chỉ từ thế kỷ XVI, phản ứng với việc dìm dập họ Trần của nhà Lê ở thế kỷ XV (từ Lê Lợi giết Trần Cảo đến Lê Thánh Tông bắt đổi họ Trần thành Trình) mà nảy sinh ĐẠO NỘI hay Đạo giáo dân Việt Nam với ĐỨC THÀNH TRẦN (cùng việc thánh hóa cả Phạm Ngũ Lão cùngphu nhân công chúa con gái Trần Hưng Đạo). Thế là từ thế kỷ XVI trở đi hình thành thế đối ứng của Đạo giáo dân gian Việt Nam ở đồng bằng Bắc Bộ với tục lệ:
“THÁNG TÁM GIỖ CHA (đức thánh Trần)
THÁNG BA GIỖ MẸ (đức Mẫu Liễu Hạnh)”.
Và cả “CHA” cả “MẸ” của DÂN GIAN đều họ Trần!
5) Giới Folklore học và khoa học về tôn giáo Việt Nam luôn luôn nói đến “TỨ BẤT TỬ” song chưa bao giờ họ nói đến xuất xứ của các vị này.
Tác phẩm mới nhất về Tứ bất tử của 2 GS Vũ Ngọc Khanh, Ngô Đức Thịnh cũng vậy(43).
Tín ngưỡng về Sơn Tinh – Thánh Tản đã xuất hiện trong Sử sách từ đời Lý(44), rồi đời Trần(45).
Tín ngưỡng về Thánh Gióng cũng vậy, được đề cao từ Lý Thái Tổ(46).
Vị trí bất tử thứ ba, vợ chồng Chử Đồng Tử - Tiên Dung không hề có trong Việt điện u linh tập (1329) mà chỉ xuất hiện trong Lĩnh Nam chích quái đầu thế kỷ XVI. Đây là một thế kỷ của Dân chài và Thương nghiệp thuyền mảng, một thế kỷ “mở cửa” của Đại Việt buôn bán với nước ngoài, cả ở Đàng Trong và Đàng Ngoài. Tôi đã đi khảo sát các làng – buôn của Việt Nam dọc lưu vực sông Hồng và hơn nửa thập kỷ trước đây, tôi đã viết bài để nhận ra một sự thực: vợ chồng Chử Đồng Tử - Tiên Dung được thờ như TỔ SƯ NGHỀ BUÔN VIỆT NAM không khác gì Đền thờ Yết Kiêu ở Gia Lộc xứ Hải Đông được coi là tổ đình của các vạn chài.
Còn vị tứ bất tử thứ 4 và cuối cùng của Việt Nam MẪU LIỄU HẠNH, thì chắc chắn là tác phẩm của thế kỷ XVI và gắn với Trạng Bùng đạo sĩ (chứ không phải tiến sĩ Nho Phùng Khắc Khoan) một cách gần như hữu cơ!
Theo tôi Mẫu Liễu Hạnh là sự “tổng dung” của mọi Mẫu, nữ thần Việt – Hoa – Chăm, Phật bà Quan Âm, - và cả - hình ảnh Đức Mẹ Maria!
 
 
VÀI LỜI TẠM KẾT
 
1. Về mặt chính trị, thế kỷ XVI - XVII là thế kỷ suy đồi của nền Quân chủ - Nho giáo. Từ đây cho đến đầu thế kỷ XIX nền thống nhất Đại Việt đã bị chia cắt bởi các thế lực địa phương, quân phiệt – quan liêu, khi 2, khi 3, khi 4… VÙNG – MIỀN là một thế lực địa lý – chính trị - văn hóa dân gian Việt Nam cổ truyền.
2. Về mặt quân sự, thế kỷ XVI là một thời kỳ nội chiến loạn lạc liên miên, kéo dài sang cả thế kỷ XVIII. Câu thơ Chinh phụ ngâm khúc thế kỷ XVIII:
Nước thanh bình ba trăm năm cũ
Áo nhung trao quan vũ từ đây.
Có giá trị văn chương chứ không hề là “sự thực lịch sử”.
3. Về mặt văn hóa – xã hội, thế kỷ XVI – XVII… là những thế kỷ của nền văn hóa và tôn giáo dân gian, nổi dậy cưỡng chống lại văn hóa cung đình nho giáo.
4. Về tư tưởng hệ (Ideology), đây là thời khủng hoảng của hệ tư tưởng Nho, được triều Lê lấy làm hệ tư tưởng chính thống.
Phật giáo, Đạo giáo dân gian trỗi dậy sau 100 năm triều Hậu Lê muốn độc tôn Nho giáo.
Đây cũng là thời kỳ mở đầu việc truyền bá Đạo Thiên chúa trên đất Việt, từ miệt biển lên dần mặt cao, ngược lưu vực các sông.
Thế kỷ đảo lộn xã hội, trớ trêu thay, hay làdùng quy luật thay, lại là thế kỷ nảy sinh nhiều bậc kỹ - nữ, nhân tài mà tôi gọi là những “cuộc đời ngoại hạng”. Trạng Bùng – Mẫu Liễu Hạnh… là những vì tinh tú trong “thế giới ngoại hạng” ấy!

TƯ LIỆU HỘI THẢO HỌ PHÙNG TRONG SỰ NGHIỆP ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC QUA CÁC THỜI KỲ
 
 
TRẠNG BÙNG PHÙNG KHẮC KHOAN
DANH NHÂN - THI SĨ VĂN CHƯƠNG - NHÂN CÁCH ĐỂ ĐỜI
 
(Tham luận từ Hội thảo Khoa học Danh nhân văn hóa Phùng Khắc Khoan
tại Thạch Thất - Hà Tây (cũ)
 
Giáo sư Bùi Duy Tân
 
 
Trong bài Viễn ký hữu nhân, Phùng Khắc Khoan viết rằng:
-Tư cổ đại tài ưng đại dụng,
Trương phu khẳng dữ thế phù trầm.
 
Cụ Trần Lê Nhân, nhà Hán học nổi tiếng một thời, dịch là: “Xưa nay đại tài nên được đại dụng. Tài trai sao chịu cùng đám thế tục ngửa mặt cúi đầu để xu thời”(1).
Trong 86 năm đời mình, Phùng Khắc Khoan, Hoàng Phu – Nghị Trai Mai Nham Tử - ông Trạng trẻ Bùng, đã sống, làm việc và sáng tạo văn chương; để lại cho đời một tư cách danh nhân, một di sản tinh thần lớn lao, quý giá. Nói đến văn chương Trạng Bùng là nói đến thứ văn chương kinh bang tế thế, văn chương nhân cách để đời, văn chương gắn với sự nghiệp, văn chương làm con người thánh thiện, danh thanh, sự nghiệp thăng hoa.
Cho tới nay, đã ba lần hành hương, sáu lần viết về văn chương của Trạng  (1 – Báo cáo khoa học 1962, 2 -  Văn học thế kỷ X – XVII xuất bản 1964, 3 – Giáo trình văn học xuất bản 1979, 4 -  Chuyên luận Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan xuất bản, Hà Tây 1979, 5 – Từ điển văn học xuất bản 1982. 6 -  Từ điển bách khoa đang in), tôi cảm thấy vẫn còn nhiều điều đáng nói. Lần thứ bảy này, xin được coi như những dòng “cố sự tân biên”, thể hiện tấm lòng thành kính của lớp hậu trò trước đi miếu, cố trạch Phùng gia, đã ngoài 40 thập kỷ.
 
1- Một khối lượng tác phẩm khiêm nhường, khả kính.
Di sản tinh thần của Trạng Bùng khiêm tốn trước sự nghiệp Văn chương của đại văn hào Nguyễn Trãi, của đại thu, phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhưng khả kính trong số danh gia còn lại, với riêng xứ Đoài thuở ấy, chắc chả nhường ai.
Điểm lại sự nghiệp trước tác của Phùng Khắc Khoan, phải thừa nhận, về mặt văn hóa di văn bản của Phùng Công phức tạp không kém di văn của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm trước đó, và Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát về sau này. Thế nhưng qua khảo cứu của nhiều học giả: Bùi Duy Tân, Ngọc Liễn, Bùi Văn Nguyên, Trần Lê Sáng, di văn của Trạng Bùng về cơ bản đã dược phân giải minh bạch.(2) Theo sự tìm tòi của các ông, thì vế số lượng, Phùng Khắc Khoan còn khoảng non 500 đơn vị bài thơ. Tác phẩm được viết bằng cả chữ Hán, chữ Nôm, với nhiều thể tài: Văn tế, văn bia, văn tựa, thơ từ văn lục bát và diễn ca kinh truyện. Rải rác ở một số tư liệu, có nói đến Phùng Khắc Khoan từng tham gia viết sử, phủ chính Truyền kỳ mạn lục của đồng môn Nguyễn Dữ, viết sấm ký, sách dịch lý, bói toán và sách bàn về việc dùng binh v.v…, nhưng có lẽ, đó chỉ là nghi truyền, ngụy tác. Chắc chắn, tác phẩm còn lại của ông là 4 tập thơ chữ Hán: Ngôn chí thi tập, Huấn đồng thi tập, Đa thức tập, Mai Lĩnh sứ hoa thi tập (hoặc Sứ hoa tập); Mấy bài tựa, văn bia, văn tế và một vài tác phẩm nôm Lâm tuyền vãn.
 
2- Chí khí nam nhi – Nhập thế - An nguy – Trị loạn
Ngày nay, nói đến Phùng Khắc Khoan, trước hết là nói đến một nhân cách lớn, một hoài bão cao đẹp. Là một nhà nho, sống vào thời chế độ phong kiến lâm vào tình trạng mâu thuẫn, phân liệt hỗn chiến; hơn rất nhiều người khác, Phùng Khắc Khoan bao giờ cũng ý thức một cách sâu sắc nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong xã hội. Trong non 500 bài thơ, bài văn còn lại, Phùng Khắc Khoan luôn thể hiện chí khí nam nhi, tinh thần hăng hái bền bỉ, thái độ sống lạc quan, tin tưởng. Điều đáng quý là, Phùng Khắc Khoan không những có hoài bão và nhân cách lớn mà còn cố gắng phấn đấu để thực hiện, chứng tỏ tầm cỡ một sĩ đại phu. Có thể xem, thơ văn Phùng Khắc Khoan là sự phản ánhh tâm trạng chung của trí thức dân tộc, muốn nhập cuộc để an nguy, trị loạn, vực lại kỷ cương, đạo đức đã một thời suy sút, vãn phục xã hội lý tưởng “vua thánh, tôi hiền”, “thái bình, thịnh trị”.
Dõi theo thơ Phùng Khắc Khoan, một thế kỷ hành niên tự thuật đời ông, ngay từ những bài thơ đầu tay, nhà thơ đã nói đến tài năng và ý chí.
- Nam nhi tự hữu hiển tượng sự
Khẳng tác ngang tàng nhất trượng phu
                            (Tự thuật)
(Tài trai tự có bổn phận làm nổi tiếng thơm, vẻ vang cho cha mẹ. Chả chịu làm một đấng trượng phu ngang tàng không sự nghiệp). Về sau, thơ làm trong thời vãn niên, vẫn giữ trọn niềm say lý tưởng tầm cao nhân cách ở đời:
- Bình sinh chính trực trung thành,
Tráng chí cao huyền nhật nguyệt minh.
                                                 (Bệnh trung thư hoài)
(Đời ta chính trực lại trung thành.
Tráng chí treo cao rỡ ràng như mặt trăng mặt trời tỏa sáng)
Ông ví mình như “Côn bằng cất cánh siêu thăng(3) như” giao long liệng tít trời cao”, như tùng bách” không khi nào hàng phục lúc tuyết thành đồng”, như kình nghê “sao chịu lưu luyến vụng nước vừa móng chân trâu”, như hoa mai “nở đầu ba xuân, có chí khôi nguyên”, như quả mai “điều hòa năm đỉnhh có quyền tể tướng”. Thơ Phùng Khắc Khoan lúc nào cũng tràn đầy niềm tin và hy vọng định hướng cuộc đời đã rõ. “Xưa nay chí nam nhi cốt ở tứ phương”, “đối với nước làm trung thần”. Dù là tự thuật hàng năm, dù là nhắn gửi bạn bè, chúc thọ cha mẹ, dù là mừng một nhà học làm xong, một khoa thi vừa đậu, dù là đề vịnh thắng cảnh, phẩm bình nhân vật, nghiền mài đạo lý v.v… thơ ông bao giờ cũng hào sảng hùng tâm như thế.
Phùng Khắc Khoan trong bối cảnh “anh hùng tranh cướp nhau tán loạn” ở thế kỷ XVII, cũng có niềm băn khoăn khi chọn chúa:
Tế thời tố hữu hiền nhân chí,
Trách chủ do tàm trí giả minh,
 (Khiển muộn)
(Ta sẵn có cái chí người hiền ra giúp đời,
Nhưng còn thẹn thiếu cái chí người không biết chọn chúa)
Thế rồi, ông không chịu ra làm quan với triều Mạc, mặc dầu đang sống ở đất nhà Mạc, vào lúc vương triều này đang có cái thế ổn định. Xuất xứ của Phùng Công còn có phần cẩn trọng hơn cả người thầy khả kính của mình, lúc này đang làm quan với “ngụy Mạc”. Phủ định họ Mạc, nhưng ông không bi quan trước thời thế. Ông tin rằng “tạo hóa cơ dam chung phục thủy, ngô nho sự nghiệp khuất hoàn thân”(4). Trong một bài thơ làm đêm ba mươi tết(5), ông viết rằng: “Vui vẻ hành được đạo thì ra giúp đời, ưu nguy không hành được đạo thì ẩn cư. Thanh nhân không việc gì không thuận theo thời. Bác sắp hết tự nhiên là ngày Phục trở lại. Bỉ đến cùng nên biết có lúc thái sinh ra. Mùa đông đến lá đang rụng từ biệt cây cũ nọ. Mùa xuân về hoa đã nở ở trên cành mới kia. Bằng rồi lệch, đi rồi lại, là lẽ thường tự nhiên. Nên nhớ, hai chữ “kiên trinh” là huấn tử của “Kinh Dịch”. Nói “Tùy thời”, “ẩn cư” để mà thể hiện niềm tin: thời thế sẽ đổi thay, tình hình sẽ ngày một sáng sủa hơn, lại tự khuyên miễn chịu gian khổ, giữ kiên trinh. Để rồi “nếu gặp cơ hội đáng có thể làm được, thì thành công chưa chắc kém người xưa”.
Từ khi lặn lội vào Thanh Hóa, tham gia nghiệp trung hưng, thơ ông càng gân guốc, phấn chấn:
- Tá hành chí tại hiển dương tụy,
Nham hiểm khê thâm khởi đạn lao
(Lâm lộc Tảo hành)
(Chuyến này: dương hiển danh nhân,
Đèo heo suối thẳm, gian truân xá nào)
Nhà thơ nhìn vào đâu cũng thấy đẹp. Niềm vui trong lòng tỏa ra cả thế giới xung quanh, cảnh vật bỗng trở nên sinh tươi đầy thi vị:
Trèo leo sớm sớm chân rừng,
Trĩ kêu trọng nội, ô bừng ngoài khơi
Đón ai hoa mỉm nụ cười.
Cờ lau thẳng hướng, mặt trời bày ra
Cỏ cây thuộc tiếng mừng ta
Gió mây gợi tứ, bút hoa nẩy vần.
Lâm Lộc tảo thành – bản dịch thơ; Tham Tuyền
Niềm hân hoan tràn ngập cả đất trời, qua khúc Thường xuân từ rất đẹp:
“Khí dương trên trời trở về, mùa xuân nhân gian đã đến lại một phen mới hết. Thật là trời đất mở vận hanh thông, ngày xuân tươi tốt, hoa cỏ hướng mặt trời, sinh ý hơn hở. Má đào phô sắc đỏ, mặt liễu hé màu xanh. Oanh hót véo von, bướm bay chập chờn, tỏ vẻ vui mừng rối rít… Hãy hỏi liễu, hỏi hoa cho hương thơm đầy tay áo đỏ hồng. Uống chén rượu, làm câu thơ, ca lên cho át làn mây trắng”… (Bản dịch)
Phùng Khắc Khoan đặt hy vọng lớn ở công cuộc trung hưng. Gặp Trịnh Kiểm, rồi Lê Trung Công, Phùng được tin dùng, biết “thời cơ đã đến”, ông muốn mang tất cả “Sở tồn làm sở dụng”:
Chí dưỡng hiển một đời đã thỏa,
Được tin dùng vui tạ ơn vua.
Rắp lòng chuyển nắng thành mưa.
Tài trai thế ấy mới cho hào hùng.
Thanh Vân đắc lộ - Dịch thơ:Tham Tuyền.
Xem vậy, đủ thấy quan niệm hành đạo ở Phùng Khắc Khoan là nhất quán, trên những trang thơ. Từ những bài thơ đầu tay lúc đầu xanh tuổi trẻ, đến những bài viết khi tóc bạc, mắt hoa, bao giờ cũng tỏ bày chí khí, bộc lộ can trường, an nguy, trị loạn, dựng lại kỷ cương, vãn hồi đạo nghĩa. Phùng Khắc Khoan đã giữ trọn tiết tháo, hùng tâm, tráng chí, bất chấp khó khăn, trắc trở trên đường đời. Ông tìm ở sự phục khởi của nhà Lê, sự ổn định của xã hội, ở tình hình sán lạn của đất nước. Trên 50 năm là thần tử triều đình, là tài trai đất Việt, Phùng Khắc Khoan xứng đáng với vinh phong “nội lũy công thần”, toại nguyện với tô chí bình sinh từng ôm ấp.
Chí nam nhi ở đây, không hoành tráng như tầm vóc một Phạm Ngũ Lão, không ngang tàng, ngông ngạo như một Nguyễn Công Trứ. Nó là sự thể hiện của trách nhiệm kinh bang tế thế, là sức mạnh của tinh thần nhập thế tích cực của kẻ trượng phu, để trí quân trạch dân, an nguy trị loạn; là cơ sở của niềm tin nhân tâm thế đạo sẽ vãn hồi.
 
3 – Danh nho – thi sĩ – văn chương lo nước – thương đời.
Phùng Khắc Khoan là một danh nho. Từ phương diện ấy, ông thuộc loại hình nhà nho làm văn, làm thơ, nho gia – thi sĩ. Ông chấp nhận quan niệm văn chương nhà nho, cho rằng: Thơ để nói chí (Thi ngôn chí). Trong tựa tập thơ(6) Ngôn chí, ông viết: “Ta đối với thơ, vốn thường có chí… nếu chí mà ở sự nghiệp thì tất là nhả ra khí phách hào hùng”… Ông đặt tên cho tập thơ của mình là Ngôn chí thi tập, và nói: “Hết thảy những điều có được trong ngâm vịnh, tuy chưa đủ theo đuổi các nhà thơ hay một phần trong muôn phần, nhưng cái chí bình sinh cũng thấy rõ ở đấy”. Thơ Phùng Khắc Khoan chính là nói “Chí bình sinh” của ông. Chí ấy để vào đạo (chí ở đạo), chí ấy là nguyện ước, là lý tưởng, là tư tưởng nhà thơ. Đạo mà chí ấy hướng vào là đạo lý nho gia, đạo lý dân tộc, đạo lo nước thương đời.
Kế thừa truyền thống Nguyễn Trãi về quan niệm văn chương, Phùng Khắc Khoan cũng cho rằng văn chương phải gắn với sự nghiệp muốn “nên khanh tướng, trong bụng phải có thi thư” và “niềm vinh dự của nhà văn, chẳng kém gì tướng văn tướng võ”. Ông có ý thức dùng văn chương làm đẹp cho nước, làm hay cho đời, giống như văn chương hoa quốc của Nguyễn Trãi khi xưa:
Dụng thi hoa cuốc chân đa bổ
      (Mao trung thư)
(Bút được dùng làm vẻ vang cho nước, thật nhiều bổ ích). Nhà thơ muốn bao nhiêu phong cảnh đẹp cũng thu cả vào ngòi bút muốn đem thiên nhiên đất nước lúc nào cũng tươi tắn như xuân làm giàu thi tứ:
-Sơn toàn văn bút thiên hình dị,
Thủy dẫn từ nguyên vạn phát đồng.
(Đề Hoằng đạo thư đường).
(Núi cao nhọn như bút văn chương, ngàn hình khác lạ,
Sóng đưa lại những nguồn từ tảo, vạn dòng giống nhau).
Rồi trả lại cho đời cái phong phú, mỹ lệ, qua đáy mắt nhà thơ.
- Đón ai hoa mỉm nụ cười.
Cờ lau thẳng hướng mặt trời bày ra
Cỏ cây thuộc tiếng mừng ta
Gió mây gợi tứ, bút hoa nảy mầm
(Đã dẫn)
Văn chương phải làm đẹp cho đời, từ khả năng xua sóng bể vào nghiên mực, kéo văn tinh đến ngòi bút, thu vẻ xuân của trời đất, nhặt thắng cảnh của non sông, dồn cả vào dưới cái thói ngâm vịnh(7) của thi nhân.
Với tất cả điển chế, quy phạm của quan niệm văn chương nhà nho, Phùng Khắc Khoan vì “đưa thơ nhập cuộc”, nên đã có những nhận thức đúng về thơ ca, góp phần xây dựng quan niệm văn học dân tộc.
Quan niệm như thế, nên thơ là nơi để Phùng Khắc Khoan gửi gắm tính tình, bộc bạch tâm chí, biểu lộ hoài bão. Thơ luôn gắn với thời cuộc, với nhân tâm thế đạo, với mệnh nước lòng dân. Thơ Phùng Khắc Khoan tình sâu, nghĩa nặng, ưu ái chân thành, trong phong thái một nhà đạo học đĩnh đạc, mực thước, khoan thai “nhàn nhã, không một chút gì tỏ ra trạng thái vội vàng bối rối”. (Lê Quý Đôn).
Sống vào cái thời “bốn phương rối loạn”, các phe phái quân phiệt dùng bạo lực “tranh cướp nhau tán loạn”, xô đẩy đất nước vào cảnh “chiến tranh phân liệt”, “khói lửa liên tiếp hàng vạn dặm”, ông thở than ngao ngán:
-Tranh hùng cử thế man thao thao…
Văn chiến bất sùng đồ vũ chiến…
(Loạn thế tự thán)
(Người đời tranh nhau hùng trưởng, đâu đâu cũng chan chan như vậy chẳng chuộng đấu tranh bằng văn hóa, chỉ đấu nhau bằng vũ lực).
Và bùi ngùi, đau xót:
- Phong vũ hối minh kinh tuế cửu.
Sơn hà phá toái kỷ tinh di.
(Thương Loạn)
(Mưa gió tối tăm, kể năm đã lâu lắm
Non sông tan nát, dời chuyển mấy vòng sao).
Trước tình hình đó, ông nghĩ đến mình, và cũng nghĩ đến dân: “Mộc giáo chống chọi nhau, dân khổ về lưu lạc, ly tán”. Câu hỏi “Quét sạch mây mù ai đó tá, ung dung định lại bốn phương trời” đặt ra một cách bức xúc, song chiến tranh cứ tiếp diễn, dân đen vẫn điêu đứng lầm than. Nặng lòng ưu ái, ông hành động như một tướng lĩnh “bắt chước người xưa mặc áo thô ngắn đi tòng quân, ra vào nơi ngự dinh”, vận dụng “giáp binh ở trong ngực”, “biết rõ sĩ tốt ngọt bùi cay đắng cùng nhau” v.v…Thiên nam minh giám, một tập diễn ca lịch sử thế kỷ XVI cho rằng: Phùng Công là tướng từ chương, đúng chưa, còn bàn! Có điều trước nỗi đau khổ ly tán của dân, Phùng Khắc Khoan không những “Kỳ vọng đời nay mở ra cuộc trị bình” mà còn nhập thế, lo đời, mong dựng lại một thời bình trị:
- Sơ kỳ tư thế trị bình khai…
(Hành niên)
(Kỳ vọng đời nay mở ra cuộc trị bình)
Lo nước thương đời, Phùng Khắc Khoan giành những tình cảm ưu ái, nhân hậu hướng về dân chúng. Xưa kia, Nguyễn Trãi khuyên Lê Thái Tông “Thương yêu và chăn nuôi muôn dân, khiến trong chốn khôn cùng, xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu”. Nguyễn Bỉnh Khiêm mong Mạc Đăng Doanh “nếu có ngọn đuốc soi sáng” thì nên “soi thấu đến dân đen ở xóm quanh nhà tranh”, thì nay, Phùng Khắc Khoan cũng: “Nguyện ban bố đức dương xuân cho đời, khắp tới cả những nơi xóm làng hẻo lánh, nhà nghèo tối tăm”(8). Trong ngày đoan ngọ, ông chân thành dâng cho dân cho nước mọt phương thuốc Nguyễn Trãi”
-Nhược ngôn y quốc, y dân thủ.
Nhân nghĩa vi đan thướng thánh hoàng.
(Đoan ngọ dược).
(Như nói đến phương sách cứu nước khỏi nguy vong, cứu dân khỏi đói khổ. Xin dâng nhà vua thứ thuốc kim đan luyện bằng nhân nghĩa).
- Tá vấn ngô dân hà di lạc?
Lạc ư vương chính bố ưu ưu.
               (Thu xã)
 (Thử hỏi dân ta vui nỗi gì?
Vui vì chính sự nhân nghĩa ban ra khoan hòa, đầy đặn)
Thật rõ! Phùng Khắc Khoan không chỉ là hiện thân của một tinh thần tự nhiên, mặc dầu như thế cũng đáng là quý trọng, mà chủ yếu lại là tình nghĩa vì dân. Trong số sĩ đại phu của thời đại, Phùng Khắc Khoan là một gương mặt đẹp “Đội mũ cánh chuồn ông ngồi trong tranh”, mà “vẻ mặt ông nôm na đồng áng”.(9) Ông quan tâm đến nông nghiệp, công nghệ, thủy lợi ở quê hương, lo âu khi hạn hán, “vui mừng khi gặp mưa phải thời đồ để xuống”. Lễ tế mùa thu cơm mới, ông cầu trời phù hộ cho dân “mùa màng tươi tốt, các loại lúa bội thu”, để “cấp túc cho người già cả ở thôn làng thêm tuổi thọ”. Ông quý cái công lớn của dân trong từng hạt gạo, rồi yêu cầu chính sự phải nhân đức để tài bồi gốc nước.
- Thánh chúa thần kim cần vụ bản,
Nhân an canh tạc thái bình dân.
                                   (Xã nhật)
(Vương thượng biết chuyên lo gốc nước,
An cư lạc nghiệp thái bình dân.)
Không có một trạng Bùng “vẻ mặt còn tạc con in. Vào cổ tích ca dao, cây da bóng mát(10)”, thì sao có được, cho dân sự săn sóc ân cần, bảo ban cặn kẽ, hóm hỉnh, dí dỏm, bình dị, dân dã… đến thế, qua những vần thơ nôm na quê kiểng trong Lâm tuyền vãn.
- Trồng dưa chớ để mùa qua
Ngăn phên mắt cáo kẻo gà đạp kê.
Quanh vườn thả dậu sừng dê
Mướp trâu dưa chuột bốn bề deo dong.
- Già răm cho húng phải lui.
Măng ếch lá lốt hợp mùi xương xông.
Thơ văn Phùng Khắc Khoan cho ta thấy ông là một thi sĩ, một nho – thi sĩ và cũng là một dân – thi sĩ. Cái hay cái đẹp trong thơ ông chủ yếu là hệ quy chiếu của tinh thần nhân bản, nhập thế truyền thống. Từ đó, niềm ưu ái trong thơ ông, cũng như nhiều thi nhân đất Việt mãi mãi là tấm lòng son, khả kính ngàn đời.
 
4 - Trong bài thơ Ông Trạng nhà thơ Trần Lê Văn viết hay lắm:
Thơ chữ nho, xướng họa mấy trăm bài
Cuộn cuộn chảy trước lầu son gác tía
Trạng vẫn nhớ vun bồi thơ tiếng mẹ
Sách “Trồng cây” xanh mướt trường ca.
Nhà thơ không phủ nhận cái chất vàng son cao quý của thơ bác học chữ Hán, nhưng chủ yếu muốn khẳng định sự đóng góp của ông Nghè “vẻ mặt nôm na đồng áng” vào sự phát triển của văn chương Nôm qua Lâm tuyền vãn, được gọi là “Sách trồng cây”.
Kể cũng đúng, trong sự nghiệp văn chương của Phùng Khắc Khoan, chưa mấy ai đi sâu, đặt đúng vị trí của ông trong sáng tác thơ văn Nôm.
4.1 – Trước hết là về mặt văn bản: - Sử sách, truyện ký còn ghi Phùng Khắc Khoan có viết 2 tác phẩm Nôm.
Thứ nhất là: Lâm tuyền vãn, viết khi bị đi đày ở Thành Nam chưa rõ vào lúc nào(11). Tác phẩm còn có nhiều tên gọi. Ngư phủ nhập đào nguyên – ngư phủ nhập đào nguyên truyện – Đào nguyên hành – Lâm tuyền vãn – Lâm tuyền văn từ - Lâm tuyền giai thú. Dùng tên gọi Lâm tuyền vãn là căn cứ vào tư liệu ở quê Trạng. Lâm tuyền vãn có thể chính là Đạo nguyên hành, hoặc Ngư thủ nhập đào nguyên, cũng có thể chỉ là một phần trong đó(12). Tác phẩm hiện còn 185 câu thơ lục bát, miêu tả, giới thiệu cách vun trồng và công dụng của các loại rau hoa, cây quả thông dụng ở vùng núi Con Cuông xứ Nghệ thời xưa. Tác phẩm cũng qua những vần thơ dân dã, giản dị, mộc mạc, gửi ký thác tâm sự của một trung thần từng trải trong giới quan trường, đang sống ưu du, nhàn tản cuộc đời một dật dĩ cao đạo ở chốn lâm tuyền(13).
- Thứ hai là diễn nghĩa Kinh Dịch. Ta biết Phùng Khắc Khoan còn có sách này là do Vũ Di Trai (tức Vũ Khâm Lân) nhắc tới, khi đề tựa sách Chu dịch quốc âm giải nghỉa (còn gọi là Chu Dịch ca quyết), của Đặng Thái Phương (còn gọi là Đặng Thái Bàng) ở thế kỷ XVIII: “Nước ta trước kia, Phùng Tiên sinh đã có sách diễn nghĩa về Kinh Dịch nổi tiếng ở đời, nay sách của họ Phùng mất mà sách của họ Đặng ra tiếp, đó chẳng phải là dịp may cho người học Dịch ru”. Trong lời Tựa viết cho sách ChuDịch ca quyết năm 1813, Phạm Quý Thích cũng nói: “Việc diễn nghĩa Kinh Dịch không phải bắt đầu tư ông họ Đặng, trước kia Phùng Nghi Trai đã từng làm rồi, nhưng đến nay thất truyền, vì không gặp được người ham thích”.
Ngoài hai tác phẩm này, một số tên tác phẩm khác: Phùng Thượng thư sấm ký, Lục nhân quốc ngữ v.v… hoặc thất truyền, hoặc còn lại thì cũng chưa đáng tin cậy về mặt văn bản.
4.2 - Sau nữa là về những đóng góp của Phùng Khắc Khoan cho văn học chữ Nôm.
2.a - Phùng Khắc Khoan dùng chuyển thể lục bát sớm nhất – Lục bát, một thể thơ dân gian, được các tác giả văn học viết tiếp nhận rồi nâng cao mới từ đầu thế kỷ XVI. Những câu lục bát chữ hán trong Truyện con chuột thành tinh sách ThánhToong di thảo, và chữ Nôm trong Bồ Đề thắng cảnhh thi sách Lê triều ngự chế quốc âm thi, nói là xuất hiện cuối thế kỷ XV, đều chưa được biện minh về mặt văn bản. Nghi hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào của Lê Đức mao đầu thế kỷ XVI có một số câu lục bát trong một bài ca dài viết theo nhiều thể thơ. Chỉ đến Lâm tuyền vãn thì lục bát mới trở thành chuyển thể toàn bộ tác phẩm. Lâm tuyền vãn có một số câu vần lưng gieo ởchữ thứ tư câu tám (Trâu, bò, gà, lợn, dê, ngan. Đầy lũ, đầu đàn rong thả khắp nơi…) là chứng tích về lối gieo vần cổ xưa của thể lục bát. Về sau lục bát thường có vần ở chữ thứ sáu câu tám Phùng Khắc Khoan đã có ý thức sử dụng thể thơ dân gian để viết tác phẩm cho phù hợp với yêu cầu thể hiện nội dung dân dã, bình dị.
2.b - Phùng Khắc Khoan cũng là nhà thơ đầu tiên sử dụng ngôn ngữ thường ngày, ngôn ngữ địa phương vào sáng tác văn học. Trước Lâm tuyền vãn, Hồng Đức Quốc âm thi tập của nhiều tác giả có phong cách ngôn ngữ văn chương bác học, khẩu ngữ và ngôn ngữ bình dân cực ít. Đến Lâm tuyền vãn, lời ăn tiếng nói hàng ngày từ địa phương miền núi Nghệ An cực nhiều, để miêu tả rau cây hoa lá. Nhật dụng của dân địa phương:
- Bí đao nhếch nhác phấn vôi
Bầu lo ngảnh cổ còn ngồi trông dưa.
Rễ dứa củ để dái ra
Mít đến dần dà bắt chước học theo…
 Phùng Khắc Khoan đã nối tiếp truyền thống Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng tiếng mẹ đẻ lúc này vẫn đang bị coi thường, khắc họa một cách cụ thể và sinh động các phong vị đậm đà của quê hương đất nước.
Lâm tuyền vãnlà tác phẩm Nôm có ý nghĩacột mốc.
2.c - Phùng Khắc Khoan còn mở đầu việc diễn ca kinh truyện qua tác phẩm diễn ca Kinh Dịch. Từ thế kỷ XVI diễn ca, diễn nghĩa kinh truyện trở thành nhu cầu. Chẳng hạn, diễn ca Kinh Dịch của Phùng Khắc Khoan, của Đặng Thái Phương, diễn ca Kinh Thi của Nguyễn Bá Lân, diễn ca Kinh Thánh đạo thiên chúa của quận chúa Ka-tê-rin, em gái Trịnh Tráng v.v… Khuynh hướng diễn ca bằn thể thơ dân gian, ngôn ngữ Việt do Phùng Khắc Khoan mở đầu này, chắc là để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương thức phổ biến, tuyên truyền giáo phẩm, đạo lý, theo hướng cộng đồng dân dã. Khuynh hướng này mặc nhận vị trí cao của ngôn ngữ dân tộc, thể tài dân gian trong sinh hoạt văn hóa thời đại. Rất tiếc là tác phẩm mà người xưa cho là nổi tiếng này của Phùng Khắc Khoan đã mất, không thể nói gì được nhiều hơn về cột mốc nhỏ này.
2.d – Cần ghi nhận thêm một điều. Phùng Khắc Khoan đồng thời là một nhân vật huyền thoại. Vì ông nhiều công tích với dân, uy vọng với đời, vì ông tài cao, đức cả, ích nước lợi nhà… đã đành, song không thể quên: những hiện tượng văn hóa từ thế kỷ XVI trở đi thường nhẹ bớt chất quan phương, chính thống, gia tăng chất dân dã, bình dị. Lý Trần chủ yếu là văn hóa dân gian cộng đồng, thế kỷ XV chủ yếu là văn hóa Hán – Việt, từ thế kỷ XVI. Ở phương diện văn hóa: hài hòa dần bác học và bình dân. Xung quanh cụ Phùng một vườn hoa trái xum xuê những giai thoại: giai thoại đi sứ, giai thoại về trí thông minh, tài ứng đối, giai thoại về công tích, sự nghiệp với dân, với nước, với đời, giai thoại về mối quan hệ với người nước trong, nước ngoài, với vua quan, bạn bè, đặc biệt với Liễu Hạnh – điển nhã – thần dị - mà tít tận Đàng Trong, người ta cũng biết đến các giai thoại, cũng đưa vào truyện chương hồi. Song, đây là đề tài của một báo cáo khác. Chỉ xin ghi nhận trong sự nghiệp văn hóa của Phùng Khắc Khoan đã có một đột nhập và chiếm lĩnh của một tâm thức Folklore. Và chính điều đó, làm tăng giá trị văn chương của những tác phẩm do ông viết, trước hết là những tác phẩm Nôm.
 
5- Văn chương bang giao vệ quốc
Một bài viết riêng về thơ đi sứ và sự nghiệp bang giao kiệt xuất của Phùng Khắc Khoan sẽ nói rõ hơn. Ở đây, chỉ xin dừng lại, ở một số nhận xét về thơ văn đi sứ của Phùng Khắc Khoan. Trước hết xin trích dẫn một đoạn nhận xét của người nước ngoài Chi Phong đạo nhân Lý Toái Quang, sử giả Triều Tiên: “Nay sứ thần là ông Phùng, đầu tóc bạc phơ, thân hình gầy cứng, tuổi bảy chục mà nét mặt tơ măng, đường đi tiếng nói ba lần phiên dịch mà chân chẳng thành chai kén…, thơ ông làm chúc mừng vạn thọ thánh tiết có bao nhiêu bài khen ngợi, phô bày, lời lẽ, ý tứ hồn hậu, đủ để nhả ngọc phun châu và tiếng kêu như tiếng vàng tiếng ngọc, thế chả phải là dị nhân ư”. Thứ đến, là trích lời Tựa của Đỗ Uông, một đồng liêu, viết về thơ đi sứ: “Ông vốn là người kiên trinh chất phác, nổi tiếng hay tiếng tốt đã lâu, cho nên ông đi sứ nói những lời trung hậu ôn hòa, làm toàn vẹn được mệnh vua, làm mạnh mẽ được uy nước… Làm nhân hậu dân sinh, trường thọ quốc mạch(14)… Tiên hiền hóa lãnh thành. Ông thật được như câu nói ấy”. Và cuối cùng là nhận xét của Lê Quý Đôn, nhà bác học và một sứ thần nổi tiếng thời sau: “Phùng Khắc Khoan phụng mệnh đi sứ, tuổi đã ngoài 70, không những biện bạch quang minh chính đại, đạo đạt được mệnh lệnh của vua, làm mạnh mẽ được thể chế trong nước, đến như 30 vần thơ dâng mừng thánh tiết và hơn 10 vần thơ đáp lại chánh phó sứ nước Triều Tiên, tài tứ chứa chan, cách điệu tươi đẹp, y như lúc còn trẻ tuổi. Như thế chả phải là được linh khí núi sông giúp đỡ đấy ư?”. Không bình luận thêm, chỉ xin rút lại:
5.1 - Phùng Khắc Khoan là sứ giả vào hạng cao tuổi nhất trong số hàng trăm sứ giả nước ta đi sứ Tàu thời phong kiến. Chuyện đó không những là nguyên nhân để ông được đánh giá cao về nhân cách, công tích, mà còn chứng tỏ vị trí của ông ở cùng triều Lê Trịnh, tài năng chuyển đổi và tấm lòng yêu nước thương nhà của ông khi đi sứ.
5.2 - Phùng Khắc Khoan là sứ giả hầu như duy nhất khi đi sứ có chú ý đến phương diện kinh tế, kỹ thuật: Mang về được một số hạt giống các loài cây trồng, một số nghề dệt và làm công cụ v.v…
5.3 - Phùng Khắc Khoan là sứ giả đầu tiên của Đại Việt, tiếp xúc với sứ giả Triều Tiên là Lý Toái Quang và Kim Tiêu dật sĩ. Quan hệ hữu hảo Việt – Triều coi như được khai phóng từ đây, từ 1597. Hoàng tử Lý Long Tường thế kỷ XIII đã vượt biển sang cư trú chính trị ở Triều Tiên bấy giờ tên nước là Cao – Ly; và đã có công tích chống Nguyên Mông xâm lược. Ông được nhà vua Cao Ly phong thưởng trọng hậu. Nhưng chừng đó, chưa có sự liên hệ nào với cố quốc.
5.4- Chuyến đi sứ của Cụ Phùng được người đời sau cho là vào loại thành công nhất, vẻ vang nhất; trên tất cả những nhiệm vụ được trao, trách nhiệm phải làm, đoàn sứ thần mà cụ Phùng là Chánh sứ, đã hoàn tất, chu đáo, trọn vẹn, không ai chê trách vào đâu được.
5.5- Về mặt văn chương
Phùng Khắc Khoan là một trong dăm ba sứ giả vào loại có nhiều giai thoại, nếu không nói là nhất trong thời gian đi sứ. Trong đó có những giai thoại lẫn lộn với các tên tuổi Mạc Đĩnh Chi –Giang Văn Minh – Nguyễn Tuấn v.v…
- Phùng Khắc Khoan có một khối lượng thơ đi sứ vào loại nhiều và hay. Đặc biệt có một cụm thơ 31 bài chúc thọ khánh tiết vua Minh, được vua quan nhà Minh hết lời khen ngợi, nhưng cũng được sĩ đại phu nước ta coi là giá trị văn chương chứ không phải chỉ là loại văn chương giao tế. Cụm thơ giao tiếp với sứ Triều Tiên cũng hiếm quý. Nhìn chung thơ đi sứ của Cụ Phùng vào loại hay, nổi tiếng. Người xưa xếp thơ đi sứ thời Lê Trung Hưng và loại thơ thượng thặng, trong đó 5 tác giả được coi là hàng đầu. Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Tông Quai, Nguyễn Huy Oanh, Hồ Xá Đống, Lê Quý Đôn, Ngô Thị Nhậm khi viết Tựa cho Tịnh Sà kỷ hành của Phan Huy Ích có nhận xét: “Từ Lê trung hưng về sau, các nhà thơ danh tiếng thấy trong các tập thơ đi sứ, hoặc thăm chốn thanh u, viếng nơi cổ tích, gặp cảnh mà sinh tình. Hoặc xa cố quốc, nhớ quê nhà nhân việc mà tỏ ý, Mỡ rướt hương thừa, có thể nhuầm thấm cho đời sau”.
Trong số hàng vạn bài thơ đi sứ, hàng trăm tập thơ họa trình của khoảng 60 tác giả từ Trần đến Nguyễn, thơ đi sứ của Phùng Khắc Khoan là tập thơ nổi trội. Nó có nội dung phong phú, có tính chiến đấu cao, có tinh thần nhân ái hòa nghị, tình điệu tiêu tao, điển nhã. Nó còn gồm không ít bài là “thơ bang giao”. “Thơ thù tạc” nhằm mục đích giao tế, nhưng cũng có nhiều bài hay, đẹp, đầy khí phách.
 
6. Kết luận
Thơ văn Phùng Khắc Khoan là di sản tinh thần quý hiểm. Ở đó, chúng ta có cả một con người, một sự nghiệp, một nhân cách lớn về một tâm hồn cao đẹp. Phùng Khắc Khoan xuất hiện trên tiến trình văn học như một tác giả cao hạng, với những đóng góp khó có thể thay thế, vì chúng lớn và độc đáo.
Cùng với sự nghiệp văn chương, sự nghiệp chính trị, bang giao, kinh tế đã đặt Phùng Khắc Khoan vào vị trí một nhân tài danh cao, vọng trọng. Phùng Khắc Khoan là một trong những tên tuổi được nhắc đến nhiều nhất trong số những danh nhân đất nước. Từ khi ông qua đời tới nay, các thế hệ bàn về ông, các thư tịch viết về ông, cực nhiều, mà chưa mấy ai kêu cứu. Chỉ giới hạn trong thời phong kiến, đã thấy trên mấy chục đơn vị sách và người viết về ông. Từ hoàng đế Minh Thần Tông Vạn Lịch đến vua Nam Nguyễn Dực Tông Tự Đức, từ Đại đại học sĩ Thiếu Bảo Trương Vị nhà Minh đến lý chi Phong Toái Quang, sứ Triều Tiên, từ đồng liêu, đồng khoa Thái bảo lễ bộ quận công Nguyễn Văn Giai, Đại học sĩ, Thiếu Báo Thông quận công Đỗ Uông đến các học giả Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, các ký giả Phạm Đình Hổ, Vũ Phương Đề, từ các kỳ lão, nhân sĩ kẻ Bùng đến những Thần Siêu, Thánh Quạt… Tất cả đều dùng những mỹ từ rất ít gặp để đánh giã, bình luận mà thực chất là đề cao Trạng Bùng. Coi ông “Vốn có tài hào kiệt, đĩnh đạc vào bậc tướng văn tướng võ”, “là nhân vật đệ nhất trong nước” (Đỗ Uông), văn chương “lừng đất Bắc, chính sự vững trời nam” (Cao Bá Quát) v.v…
Riêng trên lĩnh vực văn chương, các học giả thời nay đã đặt bút ghi bia sự nghiệp trước tác của ông ở hầu hết các tập văn học sử, hợp tuyển… Từ các bộ lịch sử đất nước đến những trang lịch sử văn chương, từ các loại từ điển văn học đến từ điển bách khoa, từ những tập nhân vật lịch sử, đến các bộ từ điển danh nhân đất nước, quê hương, từ những tổng tập lớn đến các tuyển tập nhỏ, từ những bài nghiên cứu bình luận của các học giả đến tư duy cảm xúc của nhiều thi sĩ các đời v.v… Ở đâu Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan cũng hiện diện với ít nhiều tầm vóc, phẩm chất của một vĩ nhân đất nước.

TƯ LIỆU HỘI THẢO HỌ PHÙNG TRONG SỰ NGHIỆP ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC QUA CÁC THỜI KỲ
 
 
 
VẾ SỰ NGHIỆP NGOẠI GIAO
CỦA CỤ TRẠNG BÙNG PHÙNG KHẮC KHOAN
 
(Tham luận từ Hội thảo Khoa học Danh nhân văn hóa Phùng Khắc Khoan
tại Thạch Thất - Hà Tây (cũ)
 
Giáo sư Trần Lê Sáng - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
 
 
Chúng ta vừa nghe bản báo cáo tổng hợp về công lao đóng góp cho dân, cho nước của cụ Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan; chúng ta cũng đã được nghe một số bản báo cáo về một số mặt khác trong sự nghiệp lớn lao của cụ Trạng.
Ở đây, chúng tôi chỉ muốn nói thêm đôi điều về phương diện ngoại giao của cụ. Mà chỉ riêng ở phương diện này thôi, có lẽ nhiều người cũng đã biết, nếu chỉ trình bày trong mươi trang giấy, sự trình bầy sẽ vô cùng thiếu sót so với sự nghiệp đối ngoại lớn lao của Cụ. Các vị học giả lớn thời xưa của nước ta như cụ Lê Quý Đôn, cụ Phan Huy Chú, trong các bộ sách Kiến văn tiểu lục, Lịch triều hiến chương loại chí, khi khảo cứu về lịch sử bang giao lâu đời của nước nhà, đã đánh giá cao sự nghiệp đối ngoại của cụ Trạng Bùng. Một số bộ quốc sử của ta cũng trân trọng ghi công lao về việc đối ngoại của cụ Trạng. Ở đây, chúng tôi không thể từng đoạn, từng lời dẫn lại hết được, chỉ xin dẫn mấy câu văn vần dễ nhớ trong bộ Đại Nam quốc sử diễn ca của nhà sử học tài hoa và độc đáo Lê Ngô Cát. Mấy câu đó là:
Phùng Khoan sứ tiết cũng già
Biểu Từ biên chiết thật đà thiết minh
Mấy lời ôn du đinh ninh
Phong vương còn đợi biểu tinh có ngày(1)
Bốn câu thơ nói về Phùng Khoan, tức nói về cụ Phùng Khắc Khoan, trong bộ Đại Nam quốc sử diễn ca mà chúng tôi vừa trích dẫn đó, thoạt đọc, chúng ta thấy cũng bình thường, nhưng đọc kỹ một chút, chúng ta sẽ thấy có khá nhiều điều đáng lưu ý.
Về chuyến đi sứ Yên Kinh dài ngày, đầy gian khổ, song cũng nhiều kỷ niệm của quan Thị lang họ Phùng, chúng tôi có dịp viết khá nhiều trong tập sách Phùng Khắc Khoan – cuộc đời và thơ văn xuất bản năm 1985, ở đây, xin không nhắc lại nữa. Chỉ xin nói rõ hơn một vài điểm.
Nói về đóng góp ở phương diện ngoại giao của cụ Phùng Khắc Khoan, chúng ta có thể kể đến ba lần đạt thành công, trong công tác đối ngoại của cụ; trong đó, hai lần cụ tiếp xúc với sứ giả nhà Minh, một lần tiếp xúc với triều đình Minh tại ngay kinh đô Yên Kinh.
Chuyện lần đầu tiên tiếp xúc với sứ giả nhà Minh của nhà học giả Phùng Khắc Khoan là một câu chuyện thú vị. Có lẽ đây là một giai thoại. Nhưng giai thoại nào mà chẳng có hạt nhân hiện thực, dù là rất nhỏ đi nữa. Vấn đề là chúng ta phải lần mò qua nhiều tầng trầm tích do thời gian tồn đọng, để từ trong những tầng trầm tích đó, chúng ta có thể đến được với hiện thực. Chuyện kể rằng, đúng vào cái thời cụ Phùng bị triều đình Lê – Trịnh bắt đi đầy vào xứ Mang Quạ, triều đình nhà Minh đã phái sứ giả sang ta thảo luận việc đánh phỉ ở biên giới. Điều tai ác là trước khi thảo luận cụ thể, vị sứ giả này chỉ trình thư của nhà Minh, trong thư cũng chỉ có hai chữ “Thanh Thúy”. Cả triều đình không ai hiểu hai chữ “Thanh Thúy” có liên quan đến việc đánh phỉ như thế nào. Triều đình phải phái người vào tận xứ Mang Quạ triệu cụ Phùng về. Cụ về triều nghe xong đầu đuôi câu chuyện, liền nói:
- Đây là Minh triều muốn triều ta đến tháng mười hai ra quân, phối hợp với họ để đánh phỉ.
Vua lấy làm lạ, hỏi sao biết?
Cụ từ tốn đáp:
- Chứ “Thanh” là do chữ “Thập”, chữ “Nhị” và chữ “Nguyệt” ghép lại; chữ “Thúy” là do chữ “Vũ” và chữ “Tốt” ghép lại. Vậy, “Thanh Thúy” chính là “Thập nhi nguyệt, vũ tốt”; nghĩa là “Tháng Mười hai, ra quân”.
Sự việc đúng như vậy. Sứ giả nhà Minh vô cùng khâm phục nhân tài nước Nam, việc thảo luận biên giới được tiến hành. Cũng kể từ đây, triều đình nhà Lê Trung Hưng, càng có vị trí cao hơn trong công cuộc đối ngoại.
Lần thứ hai cụ Phùng Khắc Khoan tiếp xúc với phía nhà Minh trong hoàn cảnh khá nghiêm trọng. Đó là việc cuối tháng Giêng năm Bính Thân, tức năm 1596, triều đình phái Cụ cùng hai người anh họ vua là Lê Ngạnh và Lê Hựu cùng một đoàn vài mươi cụ kỳ lão mang giấy tờ và tiền bạc lên biên giới Trấn Nam Giao để làm việc với đại diện nhà Minh về việc công nhận nhà Lê.
Theo quốc sử ghi lại, cuộc gặp gỡ giữa hai đại diện của nhà Lê với đại diện của nhà Minh lần này có ý nghĩa ngoại giao rất lớn. Về phía nhà Lê, cuộc gặp gỡ lần này là điểm mốc nối lại qua hệ với nhà Minh sau gần bảy mươi năm bị gián đoạn; về phía nhà Minh, cuộc gặp gỡ lần này, lại là việc bỏ thái độ kỳ thị, trở lại công nhận nhà Lê là đại diện chính thức trong quan hệ nhà nước. Tất nhiên, nhà Lê đã chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ này rất chu đáo; mọi người mong đợi kết quả tốt đẹp của cuộc gặp gỡ ở biên giới lần này. Theo sử chép, chỉ trong mấy ngày mà nhà Lê đã cho nhiều đoàn lên biên giới để chuẩn bị tiện nghi và công việc bảo vệ. Sách Toàn thư chép “ngày  29 (tháng Giêng, Bính Thân), cử đoàn Hộ bộ Thượng thư kiêm Đông các học sĩ Thông Quận công Đỗ Uông và Ngự sử đài Đô Ngự sử Nguyễn Văn Giai làm hậu mệnh đến trước cửa Trần Nam Giao cùng với Tả giang binh Tuần đạo của nước Minh là Trần Đôn Lâm trao đổi giấy tờ với lời lẽ khiêm tốn. Sau lại sai Hữu tướng Hoàng Đình Ái đem quân tiếp đến Mưu Sơn”. Và ngay sau đó, tiếp đến là đoàn của Công bộ Tả thị lang Phùng Khắc Khoan “mang hai bản dập của ấn An Nam Đô thống Sứ ty và ấn An Nam Quốc vương cùng 100 cân vàng, 1000 lạng bạc” lên ngay Trấn Nam Giao để chờ cuộc họp(2).
Cuộc họp ở biên giới lần này, được phía nhà Lê chuẩn bị chu đáo và đầy thiện chí như vậy, song đáng tiếc lại không thành phía nhà Minh hủy lời hẹn trước, họ lại ra thêm điều kiện là chính vua Lê phải lên biên giới họp với đại diện của nhà Minh. Nhà Lê đã nhân nhượng, vua Lê Thế Tông đã lên tận biên giới chờ hộ khám. Nhưng phía nhà Minh lại đưa ra nhiều yêu sách khác, vua Thế Tông chờ đợi ở biên giới hơn hai tháng không họp được phải trở về kinh đô. Trong việc chuẩn bị cho cuộc họp này, người chạy đi chạy lại vất vả nhất, phải kể là quan Hộ bộ Thượng thư Đỗ Uông! Nhưng mọi cố gắng đều không thành. Sau đó, cụ Phùng Khắc Khoan phải sang tận Yên Kinh để dàn xếp. Điều đó có lẽ cũng chứng tỏ rằng, trong việc chuẩn bị cho cuộc họp ở biên giới nói trên, có thể quan Tả Thị lang họ Phùng đã có đóng gớp đáng kể nào đó, hoặc có ý kiến đáng lưu ý nào đó, bởi vậy, triều đình mới lưu ý đến tài năng đối ngoại của cụ, chọn cụ đi sứ Yên Kinh, mặc dầu lúc bấy giờ Cụ đã bảy mươi tuổi.
Chuyến đi sứ Yên Kinh của cụ Phùng Khắc Khoan vô cùng gian khổ, song cuối cùng đã đạt thành công tốt đẹp. Nói về sự gian khổ, tất nhiên trước hết phải kể đến việc lặn lội đường xa muôn dặm; khi đi phải hôn một năm trời mới đến (khi về có nhanh hơn). Đoàn sứ bộ có hai mươi ba người, trong đó có một phiên dịch. Đoàn do Công bọ Tả Thị lang Phùng Khắc Khoan làm Chánh sứ, Thái thường Tự Khanh Nguyễn Nhân Thiệm làm Phó sứ. Đoàn vừa đến biên giới Lạng Sơn đã gặp khó khăn: phía nhà Minh không cho đoàn nhập cảnh, với lý do là họ chỉ biết nhà Mạc, không biết nhà Lê nào cả. Trưởng đoàn sứ bộ Phùng Khắc Khoan đã thuyết phục được đối phương để tiếp tục làm nhiệm vụ. Với một đoàn Sứ bộ mà ngay từ đầu dã bị kỳ thị như vậy, việc đón tiếp dọc đường chắc cũng nhạt nhẽo. Dọc đường đi sứ, cụ Phùng có làm nhiều thơ, sau cụ đưa vào một tập, đặt tên là Sứ Hoa thi tập, chúng ta không thấy có bài nào cụ viết về sinh hoạt dọc đường đi sứ, nhưng thơ phản ánh tâm sự buồn bực thì có. Ví như bài Qua hồ Phiên Dương, có hai câu cuối:
Bao la hồ chứa không bờ bến
Dò thử xem ai bảo cạn nông
(Trần Lê Sáng dịch)
Hoặc trong bài Rừng mai ở núi Dũ Lĩnh cũng có hai câu kết:
Điều canh lại có tay tài giỏi
Chẳng phụ hòa khôi đệ nhất này
(Bùi Duy Tân dịch)
v.v…
 Sau hơn mười hai tháng lặn lội vất vả, đoàn Sứ bộ do cụ Phùng dẫn đầu đã đến được Yên Kinh; nhưng đoàn lại không được nhà Minh chính thức đón tiếp. Nhà Minh không chấp nhận nhà  Lê Trung Hưng là đại biểu của nước Nam. Đoàn Sứ bộ đứng trước một tình hình hết sức nghiêm trọng, hoặc chửi mắng để nhận cái chết, hoặc chịu nhục để ra về tay không. Chúng ta cũng biết, các Sứ giả đi Sứ nhà Minh thường gặp nhiều nguy hiểm. Như ông Lê Như Hổ bị sơn cả hai mắt, ông Lê Quang Bí bị giam giữ mười tám năm, ông Giang Văn Minh bị mổ bụng, v.v… Các vị Sứ giả ấy đã bất khuất chịu đựng, chịu chết để không làm nhục đến quân mệnh, để giữ quốc thể… Nhưng suy cho cùng, nhiệm vụ của một đoàn Sứ bộ là hoàn thành trách nhiệm được giao. Để hoàn thành trách nhiệm, những thứ như đối đáp nhanh, ứng xử khôn khéo, thái độ quyết liệt hay mềm ỏng… đều chỉ là những phương tiện. Thực ra, nói chuyện lịch sử đi sứ, có lẽ chính Trung Hoa là một trong những nước có lịch sử bậc thầy. Mãi từ thời Xuân Thu – Chiến Quốc, Tần, Hán, ở bên đó đã có rất nhiều vị Sứ giả ăn nói hùng biện nổi tiếng sử sách. Việc này, hình như có ảnh hưởng khá sâu sắc về sau; nghĩa là hình như phàm là một vị Sứ giả giỏi đối đáp phải giỏi, kể cả những lúc đối đáp lặt vặt. Đúng là công tác đối ngoại cần sự ăn nói giỏi; nhưng có lẽ, cái gọi là ăn nói giỏi ở đây, lại không hẳn là sự láu lỉnh, khôn vặt; mà cái gọi là ăn nói giỏi ở lĩnh vực ngoại giao, phải là sự ứng xử thích hợp với đối tượng cụ thể; sự ứng xử thích hợp này là kết quả của một quá trình học hỏi, tìm hiểu thấu đáo là sự hiểu biết đã ngấm vào xương và thịt; và đặc biệt, trong ứng xử, ứng đối, luôn luôn thể hiện sự thiện chí, chân thành, nhường nhịn. Dù có khi nói năng mềm mỏng, hay có khi đối đáp cứng cỏi, cũng đều thể hiện sự thiện chí, trung hậu. Suốt quá trình đi Sứ của cụ Phùng Khắc Khoan ở Yên kinh có lẽ đã thể hiện được phong cách ngoại giao như vậy. Và nhờ vậy, cụ đã hoàn thành được nhiệm vụ khó khăn.
Đoàn Sứ bộ do cục Phùng dẫn đầu sang Yên Kinh mới đầu không được triều Minh tiếp đoàn phải chờ đợi ở công quán. Nhưng suốt tháng trời ở công quán Ngọc Hà, cụ đã kiên nhẫn đặt quan hệ với các quan nhà Minh; đặc biệt là quan hệ với quan Thái tử Thái bảo Trương Vị, một vị Đại Học sĩ của nhà Minh, dạy Thái tử học. Cụ cũng đặt quan hệ với Chánh, Phó sứ đoàn Sứ bộ Triều Tiên và đoàn Sứ bộ Lưu Cầu (Nhật). Trên mặt trận ngoại giao, cụ Phùng Khắc Khoan đã vận dụng tất cả đã động viên tất cả để hoàn thành nhiệm vụ khó khăn. Với bản thân, Cụ đã phát hiện được sự từng trải của mình trong giao tiếp, cụ vận dụng văn học, triết học và nhiều mặt khác trong vốn văn hóa của mình vào lĩnh vực ngoại giao một cách tự nhiên và có hiệu quả. Nhà ngoại giao Phùng Khắc Khoan cũng luôn luôn ý thức được thực lực của đất nước, phát huy được lẽ phải, sự chính đáng mà đất nước được hưởng, đồng thời, nhà ngoại giao Phùng Khắc Khoan còn cố gắng tranh thủ mọi nhân tố có thể tranh thủ được ở phía đối phương; cụ cũng tranh thủ sự ủng hộ của bè bạn cùng hoàn cảnh, như tranh thủ sự ủng hộ của Sứ bộ Triều Tiên và Nhật Bản, v.v… Cuối cùng, vị sứ giả Phùng Khắc Khoan đã được chính vua Minh Thần Tông tiếp đón ân cần, được khen ngợi là bậc hiền tài, trung hậu; tập thơVạn thọ thánh tiết của cụ được nhà vua hạ chiếu khắc ván lưu hành. Nhà Minh chính thức công nhận nhà Lê trong quan hệ đối ngoại. Cụ đã góp phần quan trọng mở ra một thời kỳ mới của quan hệ Lê – Minh.
Thành công của chuyến đi sứ đầy gian khổ của cụ Phùng Khắc Khoan được đánh giá cao. Triều đình cử hẳn một đoàn có nghi lễ trang nghiêm lên tận biên giới đón đoàn cụ trở về. Cụ được phong từ Công bộ Tả Thị lang lên Lại bộ Tả Thị lang, tước Mai Lĩnh hầu. Cụ được triều đình kính trọng, Thành Tổ Trịnh Tùng gọi cụ là Phùng Tiên sinh chứ không gọi tên. Còn nhân dân càng vô cùng quý mến công đức của Cụ. Sách Lịch triều hiến chương chép: “Người trong nước đều gọi là Trạng Nguyên, vì kính mến tài năng của cụ” (Sđd. Tr.213). Danh hiệu Trạng Bùng của cụ Phùng Khắc Khoan được lưu hành từ sau chuyến đi sứ của cụ vậy.
Trong dân gian lại còn lưu truyền chuyện bà Liễu Hạnh Công Chúa đã lên tận Lạng Sơn đón Sứ giả họ Phùng và hai bên đã đối đáp mặn nồng sâu sắc. Truyện người liệt nữ ở An Ấp và Truyện Nữ thần ở Vân Cát trong tác phẩm Truyền kỳ tân phả nổi tiếng của bà Đoàn Thị Điểm cũng đã chép lại một vài mẩu chuyện về chuyến đi sứ của sứ giả họ Phùng với tình cảm trìu mến và cảm động. Nhưng có lẽ điều đáng lưu ý nhất của chuyến đi sứ giả Phùng Khắc Khoan là việc nhiều vị sứ giả sau nay đã học tập phong độ ngoại giao của cụ một cách nghiêm túc. Các nhà học giả và cũng là các vị sứ giả như Lê Quý Đôn (đi sứ nhà Thanh năm 1760), Nguyễn Dao (đi sứ nhà Thanh năm 1773), v.v… đã noi theo những kinh nghiệm quý báu của cụ Phùng và họ cũng đạt những thành công nhất định trong công tác đối ngoại. Riêng Lê Quý Đôn mà nói, trong bộ sách Kiến văn tiểu lục, ông có kể lại rằng, trong chuyến đi sứ nhà Thanh năm Canh Thìn, khi ở Yên Kinh, có hai Cử nhân người Lưu Cầu đã đến xin gặp ông. Sở dĩ thế vì người Lưu Cầu còn nhớ cha ông họ thời xưa đi Sứ đã từng có quan hệ thân mật với sứ giả nước Nam là Phùng Khắc Khoan. Có thể nói, trong mối bang giao lâu đời giữa nước ta và nước Nhật, chính cụ Phùng Khắc Khoan là một trong những người đã có công vun xới đầu tiên cho tình hữu nghị này.
Trong tập thơ Sứ Hoa thi tập, có chép được một bài thơ của Phùng Sứ quan Tiễn quốc sứ nước Lưu Cầu, bài thơ viết đầy tình hữu nghị, có hai câu cuối như sau:
Thử hồi huề mãn thiên hương tụ
Hòa khí huân vi vạn vũ đồng
Nghĩa là:
Ông về nước lần này, mang đầy hương hữu nghị,
Không khí chan hòa, bay tỏa khắp muôn nhà.
Nhưng đặc biệt đáng lưu ý hơn cả, đó là việc trong chuyến đi sứ của cụ Phùng Khắc Khoan lần này, Cụ đã có quan hệ hết sức thân thiết với Sứ bộ nước Triều Tiên do Lý Chi Phong Đạo nhân làm Trưởng đoàn và Kim Tiêu Dật sĩ làm Phó đoàn. Hai đoàn Sứ bộ Việt Nam và Triều Tiên rất tâm đầu ý hợp, hết sức thông cảm lẫn nhau. Nhiều thơ xướng họa của họ đến nay vẫn còn giữ được; Lý Chi Phong Đạo nhân và Kim Tiêu Dật sĩ còn viết lời Tựa, lời Hậu cho tập thơ Vạn thọ thánh tiết khánh hạ của Phùng Nghi Trai, các bài viết, ý tứ đều sắc sảo, tình cảm thân ái, tường trình rõ ràng. Đây là một kỷ niệm quý, một tài liệu quý về tình hữu nghị của nhân dân nước ta và nhân dân Triều Tiên anh em. Về quan hệ giữa các đoàn Sứ bộ nước ta và Triều Tiên, theo chúng tôi, có lẽ đã có lịch sử khá lâu đời; đặc biệt, chúng tôi còn nghe nói, trong số những truyện cổ được lưu truyền rộng rãi ở Việt Nam, hình như lại có truyện có gốc gác cả ở Triều Tiên. Có thể nói, mối quan hệ giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Triều Tiên là mối quan hệ lâu đời nhiều mặt và thân thiết. Nhưng cuộc gặp gỡ giữa Sứ quân Phùng Khắc Khoan và các Sứ quân Lý Toái Quang, Kim Tiêu đã làm cho tình thân thiết càng thêm thân thiết. Theo sử sách ghi lại, kể từ sau cuộc gặp gỡ của Phùng – Lý – Kim, các đoàn Sứ bộ Việt Nam và Triều Tiên thường tự tìm đến nhau, kể chuyện xưa và trao đổi thân tình.
Nói về sự đóng góp của cụ Trạng Bùng ở lĩnh vực ngoại giao thì còn phải kể nhiều nữa; nếu viết hẳn một cuốn sách, có lẽ cũng được. Hoặc, nếu sau này có cơ quan nào đó, có đơn vị nào đó muốn viết một bộ sách đại loại như lịch sử ngoại giao chẳng hạn, chúng tôi nghĩ, cụ Trạng phải có vị trí xứng đáng trong bộ sách đó. Việc nghiên cứu tư tưởng ngoại giao, phong cách ngoại giao cùng nhiều mặt khác trong lĩnh vực ngoại giao của cụ Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan rõ ràng là những vấn đề lớn phải được nghiên cứu lâu dài và nghiêm túc.
 

TƯ LIỆU HỘI THẢO HỌ PHÙNG TRONG SỰ NGHIỆP ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC QUA CÁC THỜI KỲ
 
 
PHÙNG KHẮC KHOAN VỚI VẤN ĐỀ “CHỌN ĐƯỜNG”
CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC VIỆT NAM Ở THẾ KỶ XVI
 
(Tham luận từ Hội thảo Khoa học Danh nhân văn hóa Phùng Khắc Khoan
tại Thạch Thất - Hà Tây (cũ)
 
Nguyễn Minh Tường - (Viện Sử học)
 
 
I – THẾ KỶ XVI – LẦN ĐẦU TIÊN TRONG LỊCH SỬ ĐẶT RA VẤN ĐỀ “CHỌN ĐƯỜNG” MỘT CÁCH GAY GẮT ĐỐI VỚI NGƯỜI TRÍ THỨC PHONG KIẾN.
 
Dưới thời quân chủ chỉ có tầng lớp sĩ – tức hàng ngũ tri thức – mới đặt ra vấn đề “chọn đường”. Kẻ sĩ “thập niên đăng hỏa”, “sôi kinh, nấu sử”, mang một chí hướng mãnh liệt nhất và duy nhất là được ra “hành đạo”. Có nghĩa đem sở học vững chãi của mình ra giúp đời, “trị quốc an dân”. Nếu sinh ra vào thời “trị”, kẻ sĩ chỉ có một việc “học ưu tắc sĩ” (học giỏi thì ra làm quan), họ gặp những điều đắc chí rồi quay về ở ẩn đấy lại là một chuyện khác. Đây không thuộc về vấn đề “chọn đường” của kẻ sĩ. Chỉ có kẻ sĩ mới có vấn đề “chọn đường” nhưng vấn đề này không phải xảy ra ở mọi thời mà có thể nói một cách khái quát, việc “chọn đường” của kẻ sĩ chỉ được đặt ra vào thời “loạn”.
Nhưng khi nói thời “loạn”, ở đây muốn ám chỉ thời kỳ cục diện chính trị - xã hội mất ổn định đến cao độ. Đất nước bị chia cắt bởi các lực lượng đối nghịch “không đội trời chung”, luôn luôn tìm mọi cách thôn tính, tiêu diệt lẫn nhau. Còn hiện tượng “loạn” của một triều đại như thời kỳ cuối Trần hoặc cuối Lê sơ chẳng hạn thì kẻ sĩ cũng chẳng mấy ai phải băn khoăn trong việc “chọn đường”! Trong trường hợp, kẻ sĩ đã đỗ đạt, cho dù họ có không ra làm quan mà lui về ở ẩn, họ vẫn có thể thỏa chí nguyện của mình. Nhà nho cho đó là một cách “hành đạo” rất cao, được đời ngợi ca là “Độc thiện kỳ thân”, “Độc hành kỳ đạo!”.
Vấn đề “chọn đường” của kẻ sĩ chỉ nảy sinh trong điều kiện đất nước cùng tồn tại hai vương triều, hai lực lượng chính trị, quân sự đấu tranh gay gắt với nhau, cùng muốn thu hút nhân tài về phía mình. Trong lịch sử chế độ quân chủ độc lập ở Việt Nam, chỉ đến đầu thế kỷ XVI, mới xuất hiện những điều kiện nói trên. Cụ thể, những điều kiện đó được mở đầu bằng hai sự kiện: Năm 1527 Mạc Đăng Dung giết vua cuối cùng thời Lê sơ là Cung Hoàng, giành ngôi báu từ tay nhà Lê, dựng lên Vương triều Mạc. Và 6 năm sau, năm 1533, Nguyễn Kim dựng Lê Ninh lên làm vua, mở đầu thế kỷ Lê Trung Hưng, tái lập vua Lê để làm vì, thực quyền lãnh đạo triều đình về tay các chúa Trịnh.
Nói rằng đất nước cùng tồn tại hai vương triều, mới nảy sinh vấn đề “chọn đường” của kẻ sĩ là điều kiện “cần có” nhưng chưa đủ. Kẻ sĩ chỉ thực sự phải “chọn đường” khi cả hai vương triều tuy đối nghịch nhau nhưng đều chứa trong nó những mặt ưu việt và hạn chế khiến cho bất kỳ kẻ sĩ nào chuẩn bị có hoài bão “xuất chính” cũng phải đấu tranh nội tâm gay gắt.
Vào đầu thế kỷ XVI, khi Mạc Đăng Dung tập hợp lực lượng, chuẩn bị giành ngôi báu, nhà Lê đã suy yếu, hủ bại đến cùng cực. Tượng trưng cho sự hủ bại đó là các ông vua cuối cùng của triều Lê sơ: “Vua quỷ” Lê Uy Mục và “Vua lợn” Lê Tương Dực. Do đó, việc Mạc Đăng Dung lật đổ ngai vàng nhà Lê, thành lập vương triều Mạc, là một việc làm hợp với quy luật: một lực lượng chính trị mới thay thế một lực lượng chính trị đã mọt ruỗng, hủ bại. Xét cho cùng, Mạc Đăng Dung tiến hành một công việc đã có tiền lệ trong lịch sử, đó là việc Trần Thủ Độ giành ngôi từ tay nhà Lý cho dòng họ Trần hồi đầu thế kỷ XIII.
Lý luận của nhà Nho nhiều khi cũng hết sức linh hoạt và tế nhị “Thiên hạ không phải là thiên hạ của một người”. Khi nhà Tần sắp sụp đổ, người ta chẳng từng ví: “Nhà Tần để xổng mất con hươu (ý nói ngôi vua)”. Ai cũng có quyền giành giật lấy “con hươu” đó, cho dù đó là Trần Thiệp, Ngô Quảng hay Hạng Võ, Lưu Bang. Thấm nhuần thứ tư tưởng đó, một số lớn cựu thần triều Lê ủng hộ Mạc Đăng Dung, mặc nhiên coi việc họ Mạc đoạt “thiên hạ” của họ Lê là “phải đạo” thôi. Hơn nữa, cần ghi nhận các ông vua Mạc, từ Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh, Mạc Phúc Hải đến Mạc Phúc Nguyên đều đề ra được những chính sách tiến bộ, tích cực khiến cho xã hội Việt Nam ngày càng ổn định và phát triển. Chưa nói, chế độ khoa cử dưới triều Mạc được tổ chức khá thường xuyên và cởi mở. Triều Mạc là một trong vài triều đại quân chủ ở Việt Nam có những chính sách thích đáng kể tuyển lựa và trọng dụng nhân tài. Dù có mang nặng tư tưởng chính thống “hoài Lê” đi chăng nữa, những kẻ sĩ sinh ra trong cương vực Bắc triều, cũng rất khó dứt bỏ họ Mạc trở về với Nam Triều, tức đi với Lê – Trịnh.
Nhà Lê Trung hưng được sử gia phong kiến tính từ năm 1533 nhưng trong vòng 20 năm, lực lượng ủng hộ nhà Lê còn bảo toàn lực lượng trước sức tấn cong của Bắc triều. Cho đến năm 1554, Trịnh Kiểm mới thực sự thiết lập được hành dinh tại xã Biên Thượng, huyện Vĩnh Lộc, trấn Thanh Hoa. Trịnh Kiểm hiểu một cách sâu sắc rằng muốn cho chính quyền Nam Triều mạnh cần phải có nhiều nhân tài. Nguồn dự trữ nhân tài lúc này ở đâu là phong phú hơn cả? Điều này Trịnh Kiểm thừa biết nơi đó chính là vùng Thăng Long và tứ trấn, trung phạm vi quản lý của họ Mạc. Do vậy khi lập xong hành dinh tại xã Biên Thượng, việc quan trọng đầu tiên Trịnh Kiểm tiến hành là: “Bắt đầu đặt chế khoa chọn nhân tài” (Toàn thư). Từ đó trở đi, Trịnh Kiểm và sau đó là Trịnh Tùng đều đặn mở khoa thi, cứ ba năm một lần.
Như vậy kể từ năm Thuận Bính thứ 6 đời Lê Trung Tôn (1557) với việc Nam tiều mở chế khoa trở đi, có thể nói triều đình Lê Trịnh chính thức thực hiện chính sách thu hút và giành giật nhân tài với Bắc triều. Tuy nhiên, việc Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng sử dụng “con bài” vua Lê, về danh nghĩa có vẻ “chính thống”, nhưng thực chất các bề tôi họ Trịnh thâu tóm toàn bộ quyền bính (sau này giới nhà Nho gọi thẳng ra là hiện tượng “mũ giày đảo lộn!”) không dễ gì tâm phục được số đông tầng lớp kẻ sĩ xông ta tại vùng Bắc Triều và chịu nhiều ân sủng của họ Mạc. Kẻ sĩ Việt Nam ở thế kỷ XVII bị trăn trở trong cuộc đấu tranh nội tâm để “chọn đường” có những nguyên nhân sâu sắc là như vậy. Phùng Khắc Khoan và những kẻ sĩ xông ra trước ông ít lâu và đương thời với ông “bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước” đó. Cuộc đấu tranh lúc âm thầm lúc quyết liệt trong hàng ngũ kẻ sĩ trong từng cá nhân mỗi con người để chọn một con đường. Ở lại Bắc triều cúc cung phục vụ triều Mạc hay lên đường về với Nam Triều giúp sức cùng tập đoàn Lê – Trịnh tiêu diệt Bắc Triều? Đó quả là một câu hỏi lớn không phải có thể trả lời trong một sớm một chiều!
 
II – NỖI TRĂN TRỞ CỦA PHÙNG KHẮC KHOAN VÀ LỚP TRI THỨC ĐƯƠNG THỜI TRONG VẤN ĐỀ CHỌN ĐƯỜNG
 
Như trên đã nói, từ năm 1527, khi Mạc Đăng Dung tiến hành cuộc đảo chính cung đình, lật đổ nhà Lê, lập ra triều Mạc, đặt người trí thức Việt Nam đứng trước những ngả đường hết sức khác nhau.
Trong suốt thời gian 65 năm tồn tại đích thực của triều Mạc (1527 - 1592), chí ít cũng vạch ra trước mắt trí thức đường thời ba con đường cần lựa chọn: hết lòng đi theo triều Mạc, bất hợp tác với họ Mạc lui về ẩn dật và chống lại triều Mạc, hoặc nhận lấy cái chết hoặc chạy vào Thanh Hóa giúp dập Lê – Trịnh.
Con đường thứ nhất xem ra là con đường êm đềm và dễ dàng hơn cả. Đi theo con đường này phần lớn là những tri thức có danh vọng, được đào tạo vào đỗ đạt từ triều Lê: đó là thương thư Lễ bộ Vũ Hữu, Trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh, Bảng nhãn hứa Tam Tỉnh, Thám hoa Trần Phỉ, các tiến sĩ Nguyễn Mậu, Nguyễn Bạt Tuy, Đào Nghiễm… Chắc chắn khi chấp nhận phục vụ tân triều, các trí thức Nho học kể trên không tránh khỏi mặc cảm tội lỗi. “Trung thần bất sự nhị quân” (Trung thần không thờ hai vua). Song con đường này dù sao cũng an toàn hơn. Cứ cho rằng họ cũng có một thời gian suy tư để chọn đường nhưng sự đắn đo ấy, có lẽ không cần kéo dài lắm. Cùng đi trên con đường này, còn một số lượng tri thức hết sức đông đảo, tấp nập ra ứng thí trong các kỳ thi hương, hội, đình do triều Mạc thường xuyên tổ chức. Đại diện cho số này là những tên tuổi mà sự nghiệp khá hiển hách. Đó là các trạng nguyên Nguyễn Thiến, Giáp Hải, bảng nhãn Bùi Vịnh, các hoàng giáp, tiến sĩ Bùi Trí Vĩnh, Bùi Bá Chiến, Hoàng Sĩ Khải, Dương Văn An, Phạm Thiệu, Lương Phùng Thìn, Nguyễn Năng Nhượng, Vũ Cán, Hà Nhiệm Đại v.v…
Con đường thứ hai: bất hợp tác với triều Mạc. Đi theo con đường này tuy không khó khăn lắm nhưng cũng chẳng phải dễ dàng gì. Bởi lẽ để từ bỏ vinh hoa phú quý về ẩn dật phải vững tâm lắm mới làm được. Chính vì thế con đường này có ít người chọn lựa nhất. Họ còn để lại một vài tên tuổi như Nguyễn Dữ, Nguyễn Hàng…
Con đường thứ ba: Chống lại nhà Mạc. Những người đi theo con đường này không phải chỉ có một loại người thuần nhất. Đây chính là con đường gây cho người trí thức nhiều nỗi trăn trở nhất. Có những người chống lại triều Mạc một cách quyết liệt ngay từ đầu; dũng cảm nhận lấy cái chết như trường hợp Thương thư bộ Lại trạng Nguyễn Vũ Duệ, Bảng nhãn Ngô Hoãn, Tiến sĩ Đàm Thận Huy… hoặc đứng ra dấy quân đánh lại triều Mạc, trong một thời gian, để rồi nhận lấy cái chết khi thất bại như Thám hoa Nguyễn Hữu Nghiêm… Cũng trong số này còn có một vài trường hợp đặc biệt. Đã từng đỗ đạt và làm quan với triều Mạc, sau lui về quê hương nhưng ngấm ngầm bầy mưu tính kế để chống lại vương triều mà họ từng phục vụ: Đó là hiện tượng Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm v.v… Ngoài ra còn một số tri thức kiên quyết đi theo Lê Trịnh ngay từ buổi đầu trung hưng là trường hợp Lương Hữu Khánh, Phùng Khắc Khoan.
Nói Phùng Khắc Khoan thuộc vào số trí thức kiên quyết theo Lê – Trịnh, không có nghĩa các quyết định đó đã được hình thành dứt khoát từ khi ông mới bước vào tuổi thành niên.
Phùng Khắc Khoan lên đường vào Thanh Hóa theo Lê Trịnh năm 1554, lúc ông vừa tròn 26 tuổi. Nhà Lê đã trung hưng được hơn 20 năm rồi. Như vậy, ông cũng có thời gian khá dài gần 10 năm để chọn đường: ra thi rồi làm quan với triều Mạc hay giúp nhà Lê Trung Hưng.
Ngày nay, chúng ta đủ cơ sở tư liệu để kết luận rằng: trước năm 1554, Phùng Khắc Khoan cũng không phải không có ý định ra làm quan với triều Mạc. Bằng chứng là, ông đã dự kỳ thi hương năm Nhâm Tý (1552) tại Thăng Long nhưng khoa thi đó, ông không đỗ, chỉ qua được Tam trường. Điều đó cho thấy nếu Phùng Khắc Khoan đỗ khoa thi hương ấy thì không có lý do gì để ông không tham dự kỳ thi hội vào năm sau: khoa Quý Sửu, niên hiểu Cảnh Lịch thứ 6 (1553) đời Mạc Phú Nguyên. Văn thơ của ông sáng tạo trong thời gian này cũng nói lên nỗi sốt ruột được ra làm quan để thỏa chí nguyện hành đạo của ông.
Trong lời đề tựa cho bài thơ “Đề Hoằng đạo thư đường” (để ở nhà học Hoằng đạo) của mình, Phùng Khắc Khoan nói rõ ý định của ông: “Tôi theo nghiệp nho, để chí vào đạo, đến nay đã mấy năm: Mùa đông năm Tân Hợi (1551) mới sửa nhà cũ quan Hàn lâm thị thư họ Nguyễn đời Trần ở phía Bắc làng Phùng Xá, sáng lập ra thư đường mới này. Lại lấy hai chữ “Hoằng Đạo” đặt tên cho thư đường, ấy là lấy nghĩa ở câu “Nhân năng hoằng đạo” (người có thể mở rộng đạo) vậy!... Nếu sau này chúng tôi đắc thời thành đạo, lấy đạo giúp vua, để thay cho dân, thì gốc những cái hay ấy cũng từ Đạo mà ra”(1). Bài thơ được đề vào tường nhà học Hoằng Đạo của Phùng Khắc Khoan tại làng Phùng Xá là vùng đất thuộc phạm vi quản lý của Bắc Triều. Thế mà trong lời tựa, ông lại viết: “Nếu sau này chúng tôi đắc thời hành đạo, lấy đạo giúp vua…”, thì chắc rằng vua đó chưa thể là Vua Lê Trung Hưng được, vả lại, ký ức dân gian thường truyền tụng câu chuyện Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “đánh thức” Phùng Khắc Khoan bằng một câu nói đầy ngụ ý: “Gà đã gáy sáng rồi, sao còn chưa dậy?”. “Trời đã sáng rồi” ý muốn nói nhà Lê Trung Hưng, còn “chưa dậy” nhằm ám chỉ sự đắn đo, chưa dứt khoát bỏ triều Mạc của Phùng Khắc Khoan. Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm thày dạy của họ Phùng, từng được triều Mạc lấy đỗ Trạng nguyên, lại đang sống trên đất của họ Mạc cũng không còn cách nào khác, đành phải nói bóng gió như trên.
Những trí thức Việt Nam ở vào thế kỷ XVI nói chung và Phùng Khắc Khoan nói riêng đã bằng sự chọn đường của mình trong nỗi suy tư, đắn đo và trăn trở, làm cho vấn đề chọn đường của tri thức thời kỳ này thực sự nổi lên thành vấn đề hàng đầu của người tri thức trước thời cuộc. Và đến lượt mình, vấn đề chọn đường lại là điều quyết định hết sức quan trọng đối với hướng đi, công danh, sự nghiệp, đóng góp của mỗi cá nhân người trí thức trong thời đại của họ.
*
*     *
Trở lại vấn đề: cần phải nhận định và đánh giá như thế nào về con đường mà Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan đã lựa chọn?
Có người nghiên cứu cho rằng việc Phùng Khắc Khoan theo về với Lê - Trịnh là việc làm vì dân vì nước đặng góp phần ổn định tình hình xã hội đương thời. Theo tôi, nhận định này đúng nhưng chưa thật thỏa đáng. Bởi lẽ, người ta vẫn có thể đặt ra một giả thiết ngược lại: Phùng Khắc Khoan cứ theo con đường làm quan với triều Mạc thì hoài bão hành đạo, trị quốc an dân của ông có ai ngăn cấm đâu. Có ai trách cứ Trạng nguên Giáp Hải đã ra làm quan và phò tá mấy triều vua nhà Mạc? Sử gia đầu thế kỷ XIX là Phan Huy Chú, trong bộ sách đồ sộ “Liệu triều hiến chương loại chí”, phần “Nhân vật chí – Người phò tá có công lao tài đức”, lựa chọn trong khoảng hơn 500 năm từ đời Lý đến đời Mạc, ông chỉ nêu tên có 23 người. Trong số đó, sử gia họ Phan đã dành cho Giáp Hải những dòng ghi chép rất trân trọng. Điều đó cho thấy con đường đi với triều Mạc, đâu phải con đường xấu, đáng chê trách đối với người đương thời và sử gia phong kiến này.
Theo tôi, Phùng Khắc Khoan dứt khoát chọn con đường theo Lê Trịnh vào năm 1554 về cơ bản bởi 2 lý do dưới đây:
1- Tư tưởng chính thống của Nho gia luôn ám ảnh ông khi có ý định ra làm quan phục vụ vương triều Mạc. Nói chính xác hơn tư tưởng này đã từng ám ảnh người thày mà ông hằng kính trọng Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Phùng Khắc Khoan chịu ảnh hưởng tư tưởng của Trạng Trình là điều dễ hiểu.
2 – Chí hướng của Phùng Khắc Khoan: Muốn để lại một sự nghiệp phi thường.
Nếu như bị ám ảnh bởi tư tưởng chính thống mà không muốn tạo dựng sự nghiệp phi thường, chỉ thích “nhàn” chẳng hạn thì lui về ẩn dật như Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Phùng Khắc Khoan không thuộc vào số người thích nhàn như ông thầy họ Nguyễn của mình. Mà ngược lại từ hồi trẻ, Phùng Khắc Khoan đã ôm ấp một hoài bão làm một Y Doãn, Phó Nham hoặc một Trương Lương, Khổng Minh của đương thời. Ngày nay chúng ta cứ đọc tập “Ngôn chí thi” của Phùng Khắc Khoan thì hiểu rõ hoài bão của ông.
Trong bài thơ “Đề ở nhà học Hoằng Đạo” nói ở trên, vào năm họ Phùng mới 23 tuổi, đã có những vần thơ đầy tự tin như sau:
Động nhĩ bát hoang quy thất nội
Hồn nhiên nhất lý cánh hung trung
Cư nhân do nghĩa ngộ nho sự
Tế thế khang dân chí khí hùng.
(Lồng lộng tám phương chầu giữa cửa
Thuận hòa một lý sáng trong lòng
Việc nhà nho chỉ vì nhân nghĩa
Độ thế yên dân chí khí hùng)
(Theo Tham Tuyền)
Tuy vậy những câu trên chưa thật lột tả rõ ràng chí hướng của ông, ở bài “Khiển muộn” (Giải buồn). Phùng Khắc Khoan nói thẳng mong muốn của mình:
Tẩy trừ tục ngoại phiến trần tình
Uẩn súc hung trung vạn giáp cường
Nhược ngộ khả vi Cơ hội xứ
Công thành vị tất thiếu Trương Lương.
(Bụi nhơ quét sạch đời yên tĩnh
Binh giáp mang theo chí quật cường
Cơ hội đáng làm như có gặp
Công thành hồ dễ kém Trương Lương!)
(Tham Tuyền)
Đọc văn thơ của Phùng Khắc Khoan, nhất là đọc loại thơ “ngôn chí” của ông, chúng ta càng hiểu rõ lý do vì sao ông bỏ trốn Triều Mạc vào Thanh Hóa theo Lê - Trịnh! Phùng Khắc Khoan muốn tạo dựng một sự nghiệp phi thường cho đời mình. Trong sách “Lịch triều hiến chương loại chi”, Phan Huy Chú cho biết: “Thái sư Trịnh Kiểm mời gặp ông, biết là người có học thức mưu lược, cho tham dự việc trong màn trướng”(2) có nghĩa Phùng Khắc Khoan, ngay từ đầu vào Thanh Hóa, giúp Lê Trung Hưng đã được Trịnh Kiểm rất coi trọng: ông làm đại mưu sĩ cho chúa Trịnh giống như Trưng Lương với Hán Cao Tổ, Lưu Bang, Khổng Minh giúp Lưu Huyền Đức.
Kẻ sĩ học đạo Nho, ra xuất Chính thường ôm ấp một hoài bão: đạt được cái mà người xưa gọi là “Tam bất hủ”. Lập Đức - Lập công và Lập Ngôn. Họ rất sợ khi chết đi bị nát cùng cỏ cây. Trong trường hợp Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, có thể nói, ông đã đạt được cái điều mong muốn lớn nhất mà một kẻ sĩ hằng ôm ấp. Hành trang của ông cho thấy, Phùng Khắc Khoan vừa lập được cả đức, cả công lẫn ngôn.
Phùng Khắc Khoan xứng đáng là một danh nhân văn hóa kiệt xuất của dân tộc.
 

 


(1) Xin xem – Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm, Hội đồng lịch sử Hải Phòng, Viện Văn học (Kỷ yếu Hội nghị khoa học nhân 400 năm mất), Hải Phòng, 1991, 434 trang, khổ 13 x 19.
- Nguyễn Bỉnh Khiêm – Danh nhân văn hóa, Bộ Văn hóa Thông tin và thể thao, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, 1991 (kỷ niệm 500 năm năm sinh). 410 trang, khổ 13x19.
(2) Xin xem Địa chí Hà Bắc, Ty Văn hóa và Thông tin, Thư viện tỉnh, Hà Bắc, 1982, 740 trang, khổ 19x27. Đặc biệt xin xem các trang 369 – 370, 726…
(3) Xem Trần Quốc Vương – Lê Lợi – Mạc Đăng Dung – Trịnh Khiêm gốc tích – Tam linh – xứ hành­ (cả bản tiếng Việt và tiếng Anh) SKAP, Đại học Cornell, New York, 12.1990.
(4) Xem Đỗ Thị Hảo (Viện Hán Nôm) – Những bà giáo thời xưa Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 1988, trang 44 – 77.
Tài liệu xưa nhất chép về tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ là sách Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề (1697), người Mộ Trạch, xứ Đông (Bình Giang), đậu tiến sĩ năm Vĩnh Hựu 2 {o}- (1732). (Thư viện KHXH (nay là Viện Hán Nôm) số A.44.
(5) Xin xem - Đại Việt Lê triều đế vương trung hưng công nghiệp thực lực – (gọi tắt là Trung hưng thực lực (THTL). Sách này của các sử thần triều Lê soạn dưới sự giám sát của Duệ quận công HỒ SĨ LƯƠNG, chép công trạng các chúa trịnh “Phò vua Lê” từ 1533 đến 1675.
Nay thư viện Hán Nôm còn giữ được bản in có Tựa đề Vĩnh Trị nguyên niên (1676).
-Trịnh gia thế phả. Sách của Thư viện Khoa học xã hội (nay chuyển cho Viện Hán Nôm) ký hiệu A1821. Từ đầu ghi Gia Long nguyên niên (1802), do TRỊNH CƠ – là cháu của người bản tộc được quyền coi việc thờ tự họ Trịnh – vâng (chỉ truyền của vua Gia Long) soạn.
(6) Hoàng Xuân Hãn – Gốc tích các chúa Trịnh và một bức thư Nôm của Trịnh Kiểm. Tập san SỬ - ĐỊA, Sài Gòn, số 4, 1966, trang 3.
(+)  Đây là lần đầu tiên sử sách chép cái Đình làng với chức năng “công sở ” của làng.
Có lẽ là Tây An hầu Lê Phi Thừa. Sử chép nhà Mạc cho cai trị 7 huyện xứ Thanh trong đó có huyện quê Trịnh Kiểm. Sau cùng bỏ Mạc, hành Lê - Trịnh.
(++) Ở sơ Đồn điền Yên Định thời Lê Thánh Tông.
(7) Đại Việt sử ký toán thư (sau đây sẽ gọi tắt là Toàn thư) của Ngô Sĩ Liêm (người được Nguyễn Trãi lấy đố tiến sĩ 1442 sau viết sách chửi ông, bênh vực việc nhà Lê giết Nguyễn Trãi, đồng thời cũng là người chửi nhà Hồ hăng nhất) và các sử thần khác triều Lê. Bản dịch của Viện Sử học, 4 tập. Nxb KHXH, Hà Nội, Tập III (in 1968), trang 176.
(8) Toàn thư. Đã dẫn, tập III, trang 175.
(9) Như trên, trang 173.
(10) Như trên, trang 320.
(11) Như trên, tập IV (in 1968), trang 51.
(12) Lê Quý Đôn –Đại Việt thông sử trong Lê Quý Đôn Toàn tập tập III, Nxb KHXH, Hà Nội, 1978, trang 147:
Viết về việc Thánh tông giết Cung vương Khắc Xương:
“Các đại thần là bọn Lê sau khi đã truất Nghi Dân rồi, muốn rước ông (Cung vương) là người phong nhã, đạm bạc, ăn mặc chi dùng dè sẻn, chất phác như một nho sinh”) lên ngôi vua, sai người tới bái, ông cố từ chối, họ bèn rước vua Thánh Tông;
Thánh Tông nghe thấy chuyện này, giận lắm, về sau vua nghe lời dèm, bèn giết Lê Lăng và trong lòng ghét vương.
Năm Hồng đức 7 (1476… vua (lại nghe lời dèm), hạ chiếu tới bắt Cung vương. Ngày 6 tháng 8, vương lo mà chết”.
Sách này (trang 257) viết về mâu thuẫn giữa hai dòng họ công thần kiêm ngoại thích: Trịnh (Thủy Chú, Lôi Dương) Nguyễn (Gia Miêu, Tống Sơn).
Cũng sách này (trang 116) sau khi “chê” nhà Lý, nhà Trần lấy phi, lập hậu lung tung, đã viết:
“Triều (Lê) ta gia pháp rất đúng, giáo dục luân thường rất rõ ràng: kén chọn phi tần tất lấy con em các dòng họ công thần lớn và con nhà tử tế”.
Mặc dầu vô cùng kính trọng sự uyên bác của Bảng nhãn Lê Quý Đôn, tôi cũng buộc phải thưa thốt rằng:
- Chính Cụ cũng lại công nhận rằng công thần lại kiêm ngoại thích rất lộng quyền, sau này họ Trịnh của dòng họ Trịnh Khả chẳng hạn giết cả vua (Trịnh Duy Sản giết vua Tương Dực, Lập Chiêu Tông (1516).
Trịnh Duy Đại cũng là cháu nội thái úy Trịnh Khả giết vua Quang Trị - con Mục Ý vương, cháu Kiến vương Tân, chắt Lê Thánh Tông – và hai người em 1515 – 16 v.v…
- Các vua Đinh – Lê – Lý lập nhiều hoàng hậu là để nhân nhượng và chia quyền giữa các thế lực địa phương bấy giờ còn mạnh. Họ Trần, “anh em chú bác ruột lấy nhau” không phải là “loạn luân” mà là theo một hệ thống thân tộc khác với chế độ “cửu tộc” của Trung Hoa mà nhà Hậu Lê sau này bắt chước. Trong dân gian YÊU ĐƯƠNG và HÔN NHÂN cũng vẫn còn giữ được nhiều tự do phóng khoáng “Phi Lễ phi Nho”.
- Các vua Lê về sau lấy phi – tần cũng rất lộn xộn. Chắc chắn cụ Bảng nhãn Lê Quý Đôn đã đọc bài “hịch” của cụ Lương Đắc Bằng – thày dạy Trạng Trình:
“Đoan Khánh (niên hiệu của vua Uy Mục 1505 - 1509) làm vua, ngoại thích chuyên chính. Tử Mô là phường ngu hèn nơi phố chợ, rối loạn triều cương; Thăng khoa là hạng trẻ con (chăn trâu) chốn hương thôn, cần làm uy phúc.
Thậm chí đánh thuốc độc giết bà nội (Trường lạc Thái hoàng Thái hậu), giết hại thân vương…” (XemToàn thư, tập IV, đã dẫn trang 52).
(13) Lê Quý Đôn, Sách đã dẫn, trang 258.
(14) Như trên, trang 259.
(15) Như trên, trang 237.
(16) Như trên, trang 238.
(17) Toàn thư, tập III, đã dẫn, trang 236
(18) Toàn thư, tập IV, đã dẫn, trang 49
(+) Tôi sẽ có bài nghiên cứu riêng về Di sản văn hóa Chăm để lại ở miền Bắc, như nghề dệt LỤA LÀ LĨNH với các bà chúa La, bà chúa Lĩnh, việc trồng Dừa ở Sấu Giá, ở Phùng và quê Trạng Bùng, việc thờnữ thần.
(19) Lê Quý Đôn, sách đã dẫn, trang 213.
“Khi Quang Thục (mẹ Lê Thánh Tông - TQV) còn là tiệp dư, đã từng vì trái ý, bị vua Thái Tông bỏ tù ở vườn hoa Trịnh Khả cứu bà, thoát nạn. Cho nên vua Thánh Tông nhớ lại ơn trước, cất nhắc dùng con cháu ông, ưu đãi hươn các bầy tôi khác”.
(20) Nguyễn Lang – Việt Nam Phật giáo sử luận, 2 tập, Lá Bối Sài Gòn, 1974, Paris 1977.
(21) Xem Trùng San Lam Sơn thực lục (Lê Lợi kể, Nguyễn Trãi ghi, Hồ Sĩ Dương san định). Ban chữ Hán và bản dịch của GS Trần Nghĩa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1992.
Lê Quý Đôn – Đại Việt thông sử - Sách đã dẫn, mục Thái Tổ thượng, hạ.
(22) Xem Lý Tế Xuyên (1329) – Việt điện u linh tập. Sự tích thần Bạch Mã (Đến nay còn ở phố Hàng Buồm, Hà Nội). Bản dịch của Trịnh Đình Rư, Nxb Văn hóa, Hà Nội 1960; năm 1972 GS Đinh Gia Khánh có dịch lại và dịch thêm, Nxb Văn học, Hà Nội 1972, trang 85 – 87.
(23) Lê Quý Đôn – Sách đã dẫn, trang 202 – 203. Cũng xem Toàn thư vào niên hiệu Thiệu Bình thứ tư (1437 - 1438)
(24) Toàn thư, tập II, Sách đã dẫn, trang 218 – 219 (sự việc năm 1396).
(25) Toàn thư, Tập III, sách đã dẫn, trang 194.
(+) Nhưng muốn thi phải thi “căn cước” ông cha và phường chèo con hát không được thi (lệnh năm 1462).
(26) Như trên, tập III, trang 180 (sự việc 1461).
(27) Như trên, tập III, trang 186.
(28) Toàn thư, tập IV, trang 81 – 82. Lê Quý ĐônĐại Việt thông sử, sách đã dẫn, trang 240.
(29) Như trên, tập IV, trang 90 – 91.
Về các hiệu Thiên bồng, Thiên vũ và Đạo giáo dân gian Hoa – Việt, Bent L.Pedersen (Đan Mạch):
- Popular Panthcons in old China (tiếng Anh) (các thần điện dân gian ở Trung Hoa cổ). Tác giả công bố 5 tranh thần điện Đạo giáo dân gian đời Minh – Thanh, trong đó có 2 nhóm tranh Thiên bồng – Thiên vũ. Thư viện Đại học Cornell (New York) 1991.
(30) Trần Lê Sáng. Phùng Khắc Khoan: cuộc đời và thơ văn. Nxb Hà Nội, 1985, trang 69.
(31) Nhiều tác giả -Lịch sử Hà Nam Ninh, tập I, Nam Định, 1988, trang 14, trang 170 – 171.
(32) Bảng Trung hầu Nguyễn Khoa Chiêm – Trịnh Nguyễn diễn chí (bản dịch tiếng Việt), Sở Văn hóa Tây Tiến Bình Trị Thiên, 1986, trang 57 (Tập I).
(33) Toàn thư, tập IV, đã dẫn, trang 161.
(34) Lê Quý Đôn – Đại Việt thông sử, đã dẫn, trang 276.
Cũng xem Toàn thư, tập IV, đã dẫn, trang 126.
(35) Bùi Duy Tân – Ngọc Liễn – Trạng Bùng – Phùng Khắc Khoan, Hà Sơn Bình, 1979 trang 39
Trần Lê Sáng – Sách đã dẫn, trang 23 viết rất nặng lời: “Nhưng Thái Tổ Mạc Đăng Dung đã gây lên sự phẫn nộ lớn trong nhân dân khi vua này dẫn quần thần lên tận biên giới, cởi trần tự trói, quỳ trước mặt một viên quan nhà Minh, cắt đất dâng cho nhà Minh. Lịch sử không tha thứ cho việc làm nhục nhà này của nhà Mạc”. Ông còn viết: “Suốt 5 đời nhà Mạc ở Đông Đô, kéo dài từ năm 1527 đến năm 1592 đều luôn luôn tỏ ra thần phục nhà Minh”! Tôi sẽ có bài trả lời chi tiết về vấn đề này.
(37) Toàn thư – (bản dịch của Viện Sử học, Đào Duy Anh hiệu đính chú giải và khảo chứng). Tập IV. Đã dẫn, trang 122, chú giải số 132 của cụ Đào khảo Minh sử, quyển 321 và khảo chứng không tỉ mỉ.
(38) P. Huard và M. Durand – Connaissance du Vietnam – (tiếng Pháp: Nhận thức về Việt Nam) EFEO, Hà Nội, 1953
(39) Nguyễn Siêu -  Phương Đình Dư địa chí (bản dịch của Ngô Mạnh Nghinh, Tự do, Sài Gòn, 1960, trang 237 – 238).
(40) Toàn thư, - tập IV, đã dẫn, trang 226.
(41) Câu đối ở phủ Tây Hồ - Hà Nội, một trung tâm thờ Mẫu nổi danh.
(42) Vân thương thánh mẫu tam vị đại tử tôn.
Vân Hương chánh nhất vị thánh Mẫu Liễu Hạnh công chúa, Sài Gòn, Huế, Giáp Thìn, 1964. Theo sách này Mẫu Liễu Hạnh “giáng trần” lần thứ nhất từ thế kỷ XV ở Quảng Nẹp (xã Trần Xá cũ, huyện Đại An (Vụ Bản), phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam).
(43) Vũ Ngọc Khánh – Ngô Đức Thịnh – Tứ bất tử. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1990, 132 trang khổ 13 x 19.
(44) Xem Việt sử lược – quyển 2, 3 (Bản dịch của Trần Quốc Vượng) Nxb Sử học, Hà Nội, 1960. Tác phẩm này xuất hiện ở cuối thế kỷ XIV.
(45) Lý Tế Xuyên – Viện điện u linh tập. Sách đã dẫn. Truyện thánh Tản Viên.
(46) Xem Trần Quốc Vượng – The legend of ông Gióng, from the texts to the field (tiếng Anh): Huyền tích về ông Gióng, từ thư tịch đến điền dã, Cornell University, New York, 1991.
(1) Toàn bộ thơ văn Phùng Khắc Khoan, đã được cụ cử Trần Lê Nhân người từng đến thăm đền Trạng, có bút tích để lại – dịch hầu hết toàn bộ các năm 1961. 1962. Tư liệu Khoa ngữ văn còn lưu giữ bản dịch. Có dịp, Hà Tây nên xuất bản, vừa để hoằng dương văn chương của Trạng, vừa ghi lại tâm huyết của một bản dịch hiếm quý của bậc nho túc nho tâm phục Trạng Bùng. Toàn bộ lời dịch ở đây đều trích từ bản này.
(2) Lâm tuyền vãn được Bùi Văn Nguyên in lưu hành nội bộ Đại học Sư phạm Hà nội 1: Lế Bá Sinh công bố gần 20 câu trong Danh nhân quê hương Hà Tây xuất bản – Tập I – 1973; Bùi Văn Nguyên đưa in phần đầu và cuối trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X – XVIII – Văn hóa tái bản – 1976; Bùi Duy Tân, Ngọc Liễn cho in toàn văn trong Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan – Hà Tây xuất bản – 1979; Trần Lê Sáng cho in lại Lâm tuyền vãn của sách Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, có sửa đầu đề và một số chữ theo nguyên bản đề ở nhà thờ. Về tác phẩm chữ Hán thì Bùi Duy Tân giới thiệu quy moo, diện mạo, tên tập thơ đã nhiều người biết:Ngôi chí thi tập, Mai Lĩnh sứ hoa thi tập… và hai tập thơ chưa ai ở thời hiện đại nói đến, ngay cả nhà thư mục học nổi tiếng Trần Văn Giáp và trong Huấn đồng thi tập,Đa thức tập trong Văn học cổ Việt Nam Tập II – Giáo dục xuất bản 1963 và trong Văn học Việt Nam – thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII – tập II – ĐH và THCN xuất bản 1979 và Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (đã dẫn). Trần Lê Sáng giới thiệu, phân tích, diện mạo các tập thơ trên, có thêm một số bài văn xuôi mới sưu tầm trongPhùng Khắc Khoan cuộc đời và văn thơ. Hà Nội, xuất bản 1985.
Các học giả trên, khi viết chuyên luận, hoặc giới thiệu tác phẩm của Phùng Khắc Khoan, đều đã hơn một lần tới đền Trạng Bùng thôn, và từng chép đọc những tư liệu ở đền,
(3) Trong bài này, thành phần để trong “……” chủ yếu là lấy ý từ thơ của Phùng Khắc Khoan.
(4) Thơ chữ Hán. Nguyên đán. Nghĩa là: Máy kín màu nhiệm tạo hóa đến cùng lại quay lại. Sự nghiệp nhà nho ta co rồi lại duỗi.
(5) Thơ chữ Hán: Trừ tịch tức sự…
(6)  Trước Phùng Khắc Khoan, trực tiếp viết Tựa cho thơ mình, mới chỉ vài người: Nguyễn Hán, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm v.v…
(7)  TríchMai lĩnh sứ hoa thi tập tự của Đỗ Uông.
(8) Bài Lập xuân nhật tiến hạ.
(9) – Trích thơ: Ông Trạng – Trần Lê Văn.
(10) Trích thơ: Ông Trạng – Trần Lê Văn.
(11)  Các nhà nghiên cứu cho rằng ông bị đi đày vì trái ý vua chúa vì dòm nom quý địa v.v… hoặc vào trước năm 150 dăm ba năm, hoặc sau năm 1580 dăm bảy năm (1580 là năm đỗ tiến sĩ); hoặc sau khi trí sĩ (1602). Đặc biệt sách Trịnh Nguyễn diễn Chí của Nguyễn Khoa Chiêm đầu thế kỷ XVIII (xem Trịnh Nguyễn Diễn Chí  - Bản dịch – Bình Trị Thiên xuất bản 1986) viết là ông bị đày ra núi Phượng Nhãn (có phải Phượng Hoàng – Hải Hưng?) năm  1618(?), làm một thiên tự thuật để là Lâm tuyền giải thú ngâm ngợi cho khuây buồn.
(12) Xem thêm: Văn học Việt Nam – Bùi Duy Tân – đã dẫn, và Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan – Bùi Duy Tân – Ngọc Liễn đã dẫn.
(13) Trịnh Nguyễn Diễn Chí viết về Lâm tuyền vãn: “Để giãi bày tâm chí, Khắc Khoan từng làm một thiên tự thuật đề là Lâm tuyền giai thú ngâm ngợi cho khuây buồn. Mà cũng là để nhạo cười nhân tình thế thái, vui dưỡng bản tính tự nhiên, đợi ngày mây mù bị xua tan, trên trời xanh lại thấy vừng hồng sáng rõ”, tập I, trang 133.
(14) Nguyên văn câu này: “Toàn quân mệnh, tráng quốc uy…, nhân dân sinh, thọ quốc mạnh”.
(1) Lê Ngô Cát, Đại Nam quốc sử diễn ca; Bản phiên âm – Nxb Văn học, Hà Nội, 1966, Tr 171.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư - bản dịch, tập IV, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1973, Tr 211
(1)  Dẫn theo Trần Lê Sáng: “Phùng Khắc Khoan cuộc đời và sự nghiệp thơ văn”, Nb Hà Nội – 1985, tr. 204, 205
(2) – Phan Huy Chú - Lịch hiến chương loại chí. Tập I Nxb Sử học - Hà Nội - 1961, tr.213.