Nguyên Hồng ít nói về mình, xuề xòa, nhường nhịn. Văn ông là kiếp lầm than, thơ ông là giang sơn cẩm tú, anh hùng hào kiệt. Nhìn ông - râu tóc lởm chởm, quần áo nâu nhàu nhĩ, ôm cái cặp căng phồng sờn trơ cả cốt, rảo bước trên hè phố, ngỡ là người cũ kỹ. Được gần ông, nghe ông nói, ngộ ra ông là người tươi mới lạ thường.
Nhà văn Nguyên Hồng (1918-1982)
Tôi biết nhà văn Nguyên Hồng từ hồi học Trường Bồi dưỡng những người viết văn trẻ, Hội Nhà văn Việt Nam (khóa III-1968). Được sống gần ông, nghe ông và nhiều nhà văn, nhà thơ khác nói chuyện “bếp núc” văn chương (ở nơi sơ tán, nay thuộc xã Bình Minh, Thanh Oai, Hà Nội), tôi hiểu đôi nét về tính cách độc đáo của ông.
Đến bữa, ông lại cắp rá sang bếp tập thể nhận suất ăn của mình. Chia ra một suất lẻ thường cho cảm giác quá ít nên nhà bếp thường đơm cơm và thức ăn cho ông nhỉnh hơn tiêu chuẩn một chút. Ông đem suất của mình so với của học viên và kiên quyết sẻ lại phần “ưu tiên” cỏn con kia. Nhiều lần như vậy, nhà bếp đành chia cho ông đúng tiêu chuẩn. Bưng rá cơm về nhà dân nơi sơ tán, ông thường tạt vào quán vắng bên đường. Nhìn trước nhìn sau không thấy ai, ông chui tọt vào quán, mua một chén rượu, uống thật nhanh rồi mới về nhà dùng bữa. Ông không muốn để lộ thói quen uống rượu mà hồi đó bị coi là lãng phí lương thực.
Ông rất hay pha trò. Hôm nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đến giảng, trước đông đảo học viên, hai ông “kể tội” nhau đến hơn mười phút, ai nấy đều vui bởi những chuyện nghịch ngợm đến quái đản mà hai ông già thân nhau nay có dịp nhắc lại.
Hai ông cười đùa ngả nghiêng đến chảy nước mắt. Nguyễn Xuân Khoát xin thua để vào bài, ông khơi gợi:
- Các anh chị cứ hỏi, tôi biết đến đâu trả lời đến đó, chứ dạy nhạc thì không đúng chỗ.
Học viên hỏi rất nhiều, nhạc sĩ trả lời hóm hỉnh và gẫy góc. Tôi nhớ câu hỏi là:
- Sao bác có tuổi mà viết cho thiếu nhi vẫn hay ạ?
Nhạc sĩ giải thích:
- Trong mỗi người đều có một thằng trẻ con. Khi nào nó trở lại với mình thì viết được cho nó. Chứ “cưa sừng làm nghé” là nói cho vui thôi, có ai cưa được đâu. Anh Hồng viết Cha con người mãi võ, một chuyện rất hay cho thiếu nhi chắc cũng là như vậy?
- Anh Khoát dạy chí phải. Vui nhất là bỗng thấy mình lại được làm trẻ con để viết về chính cái thằng nhóc ấy - Nguyên Hồng đáp
Trong một buổi trao đổi về kinh nghiệm viết truyện, tôi rất nhớ câu nói của ông. Một học viên hỏi:
- Khi dựng nhân vật, thầy có kinh nghiệm gì không ạ?
Ông nói:
- Tôi linh cảm là nhân vật nào khi viết nước mắt cứ ứa ra, thì người đọc thường cho là được. Như Tám Bính, Gái Đen.
Nghe ông giảng thì ai cũng thích nhưng nộp bài cho ông thì có người ngại vì ông chữa đỏ lòe cả trang giấy, gạch xóa nhiều đến nỗi có anh gọi ông là “Cây kéo tàn bạo”. Được cái là tất cả các lỗi ông chữa cho, học viên đều tâm phục, khẩu phục. Chúng tôi truyền tay nhau, bàn luận về những chỗ ông bắt lỗi, coi đó là bài học chung.
Có hôm giữa trưa hè, chúng tôi đi qua đình làng, nhìn vào, thấy ông bò toài trên tấm ni lông con con trải ở hiên, một tay phành phạch cái quạt, tay kia lăm lăm cây bút chữa bài. Ông hết lòng với lớp trẻ, chúng tôi rất biết ơn.
Trong văn giới thường ngại nhận xét nhau. Nói như nhà văn Nguyễn Tuân: “Đó là việc của bọn phê bình”. Do vậy, chúng tôi không dám yêu cầu nhà văn này nói về nhà văn khác, thế mà hai lần chúng tôi vớ bở. Khi nhà thơ Xuân Diệu đến lớp, hỏi:
- Giúp các anh chị ở đây nhiều nhất là ai?
Chúng tôi thưa:
- Nhà văn Nguyên Hồng ạ.
Xuân Diệu hồn nhiên:
- Yên tâm rồi! Về văn thì phải vái anh ấy, về thơ cũng phải vái. Thơ anh ấy đầu Ngô mình Sở, không đầu không cuối mà tài hoa, bay bổng. Anh ấy viết không giống ai, mà cũng không ai bắt chước được.
Nhà thơ Chế Lan Viên yêu cầu:
- Các anh chị thử nghĩ xem, nếu trên đời này có hai ông Xuân Diệu suốt ngày nói chuyện yêu, hai ông Chế Lan Viên suốt ngày triết lý, hai ông Nguyên Hồng suốt ngày đắm đuối thì mệt lắm, phải giảm biên. Mỗi thứ chỉ cần một người là đủ. Các anh chị phải tìm ra cái riêng của mình thì mới thành nhà văn.
Lớp tôi sau này, hầu hết đã là nhà văn hội viên nhưng theo tôi, chưa mấy ai được như các ông mong đợi.
Trở lại với nhà văn Nguyên Hồng. Nói về chữ nghĩa thì ông là người kỹ lưỡng. Đơn cử như trong bài Cửu Long Giang ta ơi, ông viết: “Đêm nay Cửu Long Giang vẫn âm vang sóng cát” nhưng báo in là: “Đêm nay Cửu Long Giang vẫn ầm vang sóng cát”.
Ông bảo:
- Thế là chết người ta rồi! Âm vang hàm ý không khoe khoang, ồn ã. Tớ lựa mãi được chữ này, đặt vào thấy hợp mới chép gửi báo. Vậy mà họ in là ầm vang, viết thế là trơn tay, nhờn tay, lười biếng, còn gì là văn chương!
Ông ít nói về mình, xuề xòa, nhường nhịn. Văn ông là kiếp lầm than, thơ ông là giang sơn cẩm tú, anh hùng hào kiệt. Tâm hồn ông rộng mở như hình ảnh người thầy giáo trong thơ ông:
Thước bảng với cánh tay đạo sĩ
Đưa ta đi sông núi tuyệt vời
Nhìn ông - râu tóc lởm chởm, quần áo nâu nhàu nhĩ, ôm cái cặp căng phồng sờn trơ cả cốt, rảo bước trên hè phố, ngỡ là người cũ kỹ. Được gần ông, nghe ông nói, ngộ ra ông là người tươi mới lạ thường.
Theo QUÁCH LIÊU / Báo BẮC GIANG