(Thứ sáu, 15/11/2024, 01:03 GMT+7)

Văn chương Sao Mai luôn gắn liền với số phận con người, hết sức bình dị và lôi cuốn. Những tác phẩm của ông đã ăn sâu trong tâm trí bao bạn đọc. Một đời văn sống lam lũ nơi rừng xanh núi đỏ, viết văn dưới ánh sáng đèn dầu, mà cho ra đời đến hơn 30 tác phẩm.
 
Hôm cũng là tôi, Mai cũng là tôi
Bao giờ cho hết kiếp sao trời
Dẫu sao thì cũng không sao cả
Cốt trả cho xong cái nợ đời.
(Huy Cận, 1994)

Năm 1985, tôi chuyển công tác từ Ty Văn hóa Thông tin về Hội Văn học Nghệ thuật Vĩnh Phú, lúc bấy giờ họa sĩ Ngô Quang Nam là Trưởng ty kiêm Chủ tịch Hội, nhạc sĩ Cao Khắc Thùy là Phó Chủ tịch TT Hội. Đến tháng 3/1989, Đại hội lần thứ ba tại Khách sạn Hòa Bình (nay là Trung tâm Hội nghị tỉnh), nhà văn Sao Mai bất ngờ trúng Phó Chủ tịch Hội, sự việc diễn ra nhanh chóng đến chính ông cũng không ngờ, bởi ông đã nghỉ hưu khá lâu. Hoàn cảnh đưa đẩy ông là thế, ông khăn gói tạm biệt 2 bà vợ, 11 người con, cùng 50 đứa cháu và một trang trại là mấy quả đồi màu mỡ, rời núi rừng Thanh Sơn ra thành phố Việt Trì nhậm chức Phó Chủ tịch TT Hội.


Nhà văn Sao Mai - Ký họa của họa sĩ Lưu Công Nhân

Được công tác cùng ông ở cơ quan thường trực hội, hằng ngày tiếp xúc, sinh hoạt cùng ông trong cái khuôn viên ngàn mét vuông, với ba dãy nhà cấp bốn của Hội Văn học Nghệ thuật Vĩnh Phú ngày ấy. Ở con người ông luôn toát lên vẻ thân thiện dễ mến, dễ gần, nhân cách sang trọng của một trí thức, một nghệ sĩ đích thực, là bạn bè cùng thời và thân thiết với nhiều tên tuổi nghệ sĩ lớn như: Nguyễn Đình Thi, Văn Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Hữu Đang, Phùng Quán, Trần Dần, Lê Đạt, Phạm Tăng, Bùi Xuân Phái, Lưu Công Nhân...

Một hôm, có chiếc xe con màu đen bóng nhoáng vào sân cơ quan, tôi nhận ra Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy TVL sang thăm ông, chả là trước đây ông TVL từng là giám đốc một lâm trường ở Thanh Sơn, các ông từng là bạn của nhau. Ông TVL về tôi hỏi nhỏ ông: “Có chuyện gì thế bác?”, ông nói: “Lão nghe nói tớ có bà ba, nên vừa sang chơi, vừa như muốn nhắc nhở, tớ nói luôn việc bà ba, hay bà bốn của tớ chỉ có tốt thôi, vì họ đang là những bông hoa vô chủ và chắc chắn sẽ không ảnh hưởng gì đến hòa bình thế giới, thế là cười hòa”. Sống trong khu tập thể của Hội, chứng kiến bao vui buồn của văn nghệ sĩ, của cán bộ nhân viên trong cơ quan. Một buổi trưa nắng nóng tôi không ngủ, thấy nhà văn đáng kính Sao Mai quần đùi áo may ô, dưới gốc cây táo, ông đang mài một con dao to, tôi ghé hỏi đùa: “Bác có việc gì mà phải dùng đến cây đại đao này?” Ông đứng phắt dậy, sờ tay vào lưỡi dao như để kiểm tra độ sắc lẹm rồi nói như quát: “Để cắt cổ thằng HBT”. Lúc ấy tôi thấy mặt ông đỏ kinh căng, mắt trợn ngược, mấy mạch máu ở cổ nổi gân xanh to như chiếc đũa, rồi mắt ông rớm lệ. Tôi bàng hoàng cả người vội khuyên ông bình tĩnh, liếc nhìn qua bờ tường thấp xuống dãy nhà tập thể, thấy nhà văn Hoàng Bình Trọng cũng áo may ô ba lỗ, tay phe phẩy chiếc quạt nan đứng trong cửa sổ đang nhìn lên.

Sau đó, tôi thấy không khí ở văn phòng Hội có vẻ nặng nề, tìm hiểu qua nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, nhà văn Khánh Hoài thì được biết cơ sự... Mấy hôm trước đó có nữ nhà văn Trần Thị Nhật Tân đến thăm hội, tôi biết chị Tân khi chị đang học Trường Viết văn Nguyễn Du, cùng khóa với anh Văn Chinh và anh Trần Quang Quý, tôi học trường Mỹ thuật ngay bên cạnh hay qua chỗ các anh. Chị Tân sau này có tiểu thuyết Dòng xoáy gây dư luận văn đàn, được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh rất khen ngợi. Những nội dung nêu trong tiểu thuyết của chị được đồng chí Nguyễn Văn Linh chỉ đạo là “Việc cần làm ngay” bấy giờ. Dạo ấy chị lên chơi với các nhà văn Phú Thọ, rồi ở nhà nhà văn Khánh Hoài một thời gian để tìm hiểu thực tế và sáng tác. Nào ngờ nữ văn sĩ đã làm cho các nhà văn đất Tổ phải điêu đứng, phải khổ vì tình đến mức phải sắm cả khí giới để đối phó với tình địch, phải lấy cả khẩu phần ăn của vợ con để giúp người tình. Tôi nhớ cũng dạo ấy, một buổi tối bà Bính vợ nhà văn HBT, phải nói ngay bà là một phụ nữ tần tảo, chịu thương chịu khó, cứ nghĩ đến bà là trong đầu tôi lại liên tưởng đến hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương. Quanh năm buôn bán ở mom sông/ Nuôi đủ năm con với một chồng. Suốt ngày bà Bính bận rộn buôn rau đầu chợ, bán cuối chợ, đồ giá đỗ kiếm chút bạc lẻ nuôi chồng, nuôi con ở cái thời buổi khốn khó của cả nước bấy giờ. Một tối bà đã theo dõi rồi bắt quả tang được chồng mình là nhà văn HBT, ông phe phẩy chiếc quạt nan như Gia Cát Lượng trong phim Tam quốc, giả vờ đi bộ thể dục, rồi ông thẳng tiến đến nhà nhà văn Khánh Hoài, bà theo sau túm được ông cùng túi gạo đem tiếp tế cho nữ nhà văn. Tôi hiểu hoàn cảnh lúc đó nghèo khó bao trùm mọi gia đình, mà gia đình nhà văn Khánh Hoài xem ra còn khó khăn hơn.

Tối ấy bà cũng không muốn làm to chuyện vì nghĩ “xấu chàng hổ ai” nhưng nhà tập thể có mấy gia đình, mỗi gia đình cách nhau có bức tường 10cm gạch xỉ nên chúng tôi biết rõ. Chả là dạo ấy bà thấy thùng gạo hao quá nhanh, lại thấy phu quân thường gọn ghẽ, sạch hơn mọi ngày, tối lại hay đi bộ khác thường nhật, sinh nghi bà mới rình và sự thể là thế. Thế mới biết ái tình bi ai đâu chỉ có ở cánh trẻ mà cả các bậc trượng phu đáng kính như các ông cũng lắm gian nan không kém.

Nhà văn Sao Mai tên thật là Tân Khải Minh, ông sinh năm 1924 tại Vị Xuyên, Mỹ Lộc, Nam Định. Họ Tân không phải chính thức là họ của ông. Thực ra ông có họ Nguyễn, nhưng đời bố ông, do nghèo khó quá nên phải đi ở thuê cho một chủ người Hoa “Tân Hỷ Khanh”, đời nhà Thanh sang Việt Nam hành nghề. Với bản tính siêng năng, thật thà nên bố ông đã được gia đình người Hoa này quý mến, nhận làm con và chuyển sang thành họ Tân. Tân Khải Minh là cái tên ông có từ đấy. Bút danh Sao Mai vốn được chiết tự từ cái tên khai sinh Tân Khải Minh (Tân = mới; Khải = khai mở; Minh = sáng. Ánh sáng ngày mới). Nhờ văn chương, có một thời hai tiếng Sao Mai nổi như cồn. Ấy là khi ông cho in bốn truyện ngắn có những cái tên lạ: UấtCămĐiĐổi, mà theo nhà văn Tô Hoài còn nhớ: “Nguyễn Huy Tưởng đã chọn được từ Khu Ba gửi lên, in trong Tạp chí Văn nghệ và khen rất hay”. Ấy là phóng sự Trại di cư Pagốt Hải Phòng viết về vùng đất ba trăm ngày thực hiện Hiệp định Giơnevơ năm 1954, được Giải thưởng Hội Nhà văn. Với cách đi riêng, giọng văn hệt như cuộc sống, lại không bị cái gì chi phối, văn ông luôn gắn liền với số phận con người, hết sức bình dị và lôi cuốn. Những tác phẩm của ông đã ăn sâu trong tâm trí bao bạn đọc. Một đời văn sống lam lũ nơi rừng xanh núi đỏ, viết văn dưới ánh sáng đèn dầu, mà cho ra đời đến hơn 30 tác phẩm. Kính phục ông, nể trọng tài năng của ông, người đã chấp nhận nghèo khó không vì cái gì và không bị cái gì chi phối để tự do sáng tác. Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn từng gom tên một số tác phẩm của ông để khái quát lên “số phận” con người ông như sau: “Uất”, “Căm” nên mới “Đổi”, “Đi”/ “Thôn Bầu thắc mắc” làm gì nữa ông/ “Di cư Pagốt” vừa xong/ Lại đi “Tìm đất” ở vùng “Làng cao”.

Trong lịch sử văn học nước nhà, có hai nhà văn nổi tiếng nhất về cách cư xử khí khái với cuộc sống của chính mình. Nhà văn Nguyên Hồng thì nổi tiếng với sự “không chịu, không chấp được” nên đã thuê xe chở vợ con một mạch từ Ngã Tư Sở (Hà Nội) tới miền quê heo hút Yên Thế để định cư và mưu sinh tại ấp Cầu Đen, để rồi không nhận lương của Hội Nhà văn, sống bằng canh tác từ vợ con và những đồng nhuận bút còm. Còn ông Sao Mai cũng từ Hà Nội, gồng gánh lên tận Thanh Sơn, để sống, làm trang trại và kiếm ăn cho 3 vợ chồng, 7 đứa con mà chỉ có tiêu chuẩn mười ba ký rưỡi gạo độn mì, bốn lạng rưỡi thịt, một cân đậu và nửa lít nước mắm. Cuộc “cách mạng” lên Thanh Sơn lập nghiệp của ông gặp vô vàn sự ngăn cản, bàn ra tán vào của nhiều bạn văn. Ngày ấy Sao Mai đi, có bạn văn khóc sướt mướt. Cái thời nghèo khó ấy nhưng mọi người rất tình nghĩa, nên mỗi bạn văn đã kỷ niệm ông một thứ. Ông Tô Hoài tặng ông cái mũ kê pi, nhà thơ Nguyễn Mỹ tặng chiếc va ly, còn nhà thơ Phùng Quán tặng ông cái rìu. Họ đều mong muốn ông sẽ trụ vững và là nhà văn người Kinh đầu tiên đi miền núi làm kinh tế thành công.


Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Phú Thọ Nguyễn Hữu Điền chúc mừng nhà văn Sao Mai

Từ khi lọt lòng mẹ phải sống trong điều kiện “không được ấp vú mẹ”. Lên 8 tuổi Sao Mai đã mê nhạc, thích hội họa, yêu muông thú và cây cảnh. Phải chăng điều đó đã dẫn dắt ông đến với con đường văn chương và gắn bó với miền sơn cước. Cuộc đời Sao Mai ly kỳ, vất vả, gian truân như ông đã viết về mình: “Tôi như mảnh chăn tiết kiệm, năm tháng là những mụn vải thừa, mang nhiều màu, nhiều hình khác nhau... Học hành rồi cũng đỗ đạt, sống trong điều kiện nay đây, mai đó. Đã có lúc được bố cho sang Paris để học nhưng vì nhà nghèo lại phải về. Lam lũ, cực nhọc, việc gì cũng trải: gõ đầu trẻ, làm báo, viết văn, làm vườn...” Sao Mai là một trong những người đầu tiên tham gia thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam từ năm 1948, Nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 1, Nguyên Trưởng ty Bình dân Học vụ, Chủ bút báo Nam Định kháng chiến, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Vĩnh Phú. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông luôn gắn liền, hòa quyện và lấp lánh như trăng sao. Phải chăng cái tư chất ấy mà dẫn dắt Sao Mai đến với văn chương từ thuở thiếu thời. Với các bút danh Trần Đạt Cơ, Mai Điệp, Sao Mai... ông đã cho ra mắt bạn đọc nhiều tác phẩm văn học có giá trị: thơ, phóng sự, truyện ngắn, tiểu thuyết, lý luận văn học... Cuộc đời Sao Mai thăng trầm, thuở nhỏ vất vả, lớn lên (1943-1944) hoạt động Việt Minh và Hội truyền bá Cứu quốc, làm báo ở Hải Phòng, Nam Định, Hà Nội từng bị mật thám Pháp bắt giam (1950,1952), cũng từng là con nghiện nặng. Nhưng văn thơ thì lai láng, bay bổng và lắng đọng lòng người theo thời gian. 17 tuổi đã cho ra mắt bạn đọc tập truyện viết cho thiếu nhi Con khỉ thọt (1941); 21 tuổi có kịch nói Học quốc ngữ (1945); 22 tuổi xuất bản tập truyện ngắn Uất (1946). Tiếp sau đó lần lượt các tập truyện, thơ, truyện ký, tiểu thuyết cứ lần lượt ra mắt bạn đọc với sự ngưỡng mộ thán phục. Trong tổng số trên 30 tác phẩm của Sao Mai đã xuất bản có hàng chục tiểu thuyết, nhiều luận đề được đánh giá là mang tính văn học và lý luận cao như bàn về Chinh phụ ngâmCung oán ngâm khúc hay Tỳ bà hành... thời kháng chiến có Nhìn xuống (tiểu thuyết 1952); chống cưỡng ép di cư có Trại di cư Pagốt Hải Phòng (phóng sự 1955); cải cách rộng đất có Thôn Bầu thắc mắc (tiểu thuyết, 1957); về gương người tốt có Ba Vì núi mới viết về anh hùng Hồ Giáo (1962); về xây dựng kinh tế mới có Tìm đất (ký sự, 1966), Sông rừng (tiểu thuyết, 1980), Mắt chim le (tập truyện 1983), Lông chim nhạn (tập truyện, 1985), Lá về mây (tiểu thuyết 1986), Sáng tối mặt người (tiểu thuyết, 2003), Tuyển tập Sao Mai (2003); cùng hàng trăm bài báo mang tính lý luận, phát hiện, đề xuất, dự báo có giá trị thuyết phục. Tiểu thuyết Sáng tối mặt người ra mắt bạn đọc vào dịp nhà văn 75 tuổi, là một bức tranh khắc họa rõ về cuộc đời của nhà văn, cũng như số phận một con người mà không ít người cũng từng nếm trải. Văn Sao Mai mộc mạc, chân chất nhưng sang trọng giống như con người ông vậy, mang dáng vẻ thanh tú của giống người Giéc-manh.

Nhà văn Sao Mai với thơ

Không chỉ có văn xuôi, ngoài tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, phóng sự. Sao Mai còn là tác giả của nhiều bài thơ để đời. Theo nhà thơ Vân Long con người thơ Sao Mai được phân làm hai mảng, mảng thơ có xu hướng ngoại cảm: Có phải tôi đi tìm khí hạo nhiên mới, hơi Đông nhiều hơn hơi Tây?/ Nó ở vùng nào, quỹ đạo nào, hay ở một thiên hà xa vừa thấy?/ Nó đang đợi những nhà văn học ngoại cảm, văn học ngoại cảm. Bạn có giúp tôi chăng? (Thơ Lê Đạt - Sao Mai, NXB Thanh niên, 1991). Kính sợ ông khi đọc hai câu: Gốc em anh nghỉ nâu huyền thoại/ Vàng lá hồn nhau lá trắng đường (Về). Sao Mai có rất nhiều thơ, nhiều bài thơ đọc đến rợn người, nhiều bài đọc day dứt, sâu thẳm cõi người khiến người ta bị ám ảnh mãi không thôi. Một trong số các bài thơ ấy mà tôi rất thích và thuộc lòng là bài: Trưa quê.

Trưa ấy quê nhà, mây trắng mây
Đường trưa hun hút nắng vai gầy
Người trong trưa quạnh nhìn không nói
Mắt trẻ trưa làng xanh ánh cây
Trưa xóm đầu thôn trưa như không
Trưa về gờn gợn cỏ may đồng
Trưa nào xa quá gà đương gáy
Ngang hơi gà xưa trưa quê sông
Từ độ người đi biết trưa quê
Thương giàn mướp nhỏ hoa chưa về
Vàng hoa trưa ấy còn bay phấn
Thơm đến trưa này trưa mướp quê.

Mười ba tiếng trưa ấy láy đi láy lại trên 12 câu thơ, như ám ảnh về không gian, thời gian cứ sâu hun hút trong cái ngõ quê, một bờ vai gầy người thôn nữ đang mệt nhọc lặng lẽ về nhà sau buổi làm đồng vất vả. vẫn những mảng mây trắng trưa hè, cỏ may đồng gờn gợn tiếng gà trưa... Những trưa quê ấy thân thuộc lắm với chúng tôi, từng là những đứa trẻ nhà quê, cởi trần đánh bi, đánh quay buổi trưa trên các con đường làng, giờ còn trong ký ức không thể nào quên. Ôi cái buổi trưa như không ấy mà làm nao lòng nhân thế.


Nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam chúc mừng nhà văn Sao Mai

Tôi có kỷ niệm đặc biệt với nhà văn Sao Mai khi ông viết bài thơ này vào một buổi trưa mùa hè, ông đã đọc đi, đọc lại nhiều lần cho tôi nghe. Riêng hai câu cuối lúc đâu ông viết là: Hoa vàng trưa ấy còn bay phấn/ Thơm đến trưa này trưa mướp quê. Tôi đã góp ý nhà văn đổi là Vàng hoa trưa ấy còn bay phấn (chữ Vàng đăt đầu câu thay cho chữ Hoa), nhà văn vỗ đùi khen hay và ông quyết định sửa như thế. Gần 70 năm theo đuổi nghiệp văn không mệt mỏi, ông viết cho tuổi thơ, cho người lớn, viết cho người Kinh, người thiểu số, cho người đồng bằng, người miền núi, cho trí thức và cho dân cày... Viết cho đối tượng nào ông hòa nhập với họ để rồi đồng cảm, nung nấu, ấp ủ, biến nó thành văn, thành thơ để ca ngợi cái hay của cuộc đời, lên án cái đê tiện thấp hèn. Cuộc đời 85 năm nhưng Sao Mai có hơn 40 năm sống ở Văn Luông (Thanh Sơn). Xa thành phố, xa bạn bè nhưng ông vẫn viết, viết say mê quên cả mình đang ở trên cái tuổi “xưa nay hiếm”. Nhà văn Tô Hoài từng viết về ông: “Tôi quý Sao Mai trong hoàn cảnh nào thì công việc viết với anh cũng như một cứu cánh. Bấn đến đâu cũng thấy Sao Mai cầm bút, cái nghề chân chính đã là quá phúc của ông” (Báo Tiền Phong ngày 8/3/1998). Từ những năm 1950, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng cũng từng khen ngợi: “Những cái cố gắng của anh Sao Mai thật là cảm động, anh sống sát dân cày, anh nghe họ nói, anh nhìn họ làm, anh theo dõi cuộc sống hằng ngày và từng bước tiến của họ. Ít có nhà văn trẻ khổ công như anh, tìm tòi, ghi chép có phương pháp như anh...” và “Anh là nhà văn của dân cày” (Báo Văn nghệ số xuân 1950). Sao Mai có cách sống dễ gần, dễ hòa hợp. Đang là nhà giáo nhưng khi cần, sẵn sàng trở thành một thợ cày, một người nông dân... mà không chút suy tư so sánh. Chẳng thế mà ở Văn Luông nơi gia đình ông sinh sống có một trang trại Sao Mai đầy tiềm năng. Người ta bảo: Sao Mai ở thành phố là trí thức, về nông thôn là nông dân, lên rừng là một chủ trang trại, người thợ rừng. “Làm ruộng quá chăm hình như mải vui thú đồng quê quên cả mình là nhà văn...” Về đời tư, trời phú cho ông cái số đào hoa để rồi có một gia đình êm ấm, hạnh phúc với 2 người vợ hiền, mẫu mực, 22 người con trai gái, dâu rể, hơn 60 cháu chắt, ấy là chưa kể đến người phụ nữ thứ ba đã ăn ở và chăm sóc cho ông hơn mười năm, khi ông ra Hội Văn nghệ tỉnh làm việc. Con đông, cháu nhiều, bạn bè, đồng nghiệp quý mến, trân trọng và ngưỡng mộ, con người và cuộc đời Sao Mai là vậy.

Nhớ lại năm 1964, Hà Nội cũng như cả miền Bắc đang gặp khó khăn về kinh tế, lại đang dốc sức chi viện cho miền Nam. Một phong trào vận động đưa dân đi khai hoang phát triển kinh tế miền núi. Trong cảnh ngộ cơm áo không đùa với khách thơ, nhà văn Sao Mai như người sắp chết đuối vớ được cọc. Ông bàn với hai bà vợ quyết chí đi khai hoang như những người tình nguyện... Từ Hà Nội lên Thanh Sơn mà phải đi hết một tuần. Những người dân địa phương đón dân Hà Nội với một tấm lòng của những người anh em ruột thịt. Họ dựng cho những ngôi nhà rông, tức là các ngôi nhà chôn cột xuống đất. 7 anh em, lít nhít trứng gà trứng vịt, chị gái 14, em bé nhỏ nhất mới hơn 1 tuổi.

Khi tiêu chuẩn lương thực của Nhà nước cấp đã hết, nhiều gia đình lục tục bỏ về Hà Nội. Chính những ngày cam go ấy, ba vợ chồng nhà văn Sao Mai, nhờ sự giúp đỡ đùm bọc của những người dân địa phương, của bạn bè văn nghệ Phú Thọ, đã trụ lại. Họ lên rừng chặt nứa, đóng thành bè, ông biết bơi, ngồi giữa, sẵn sàng ứng cứu khi có bà nào ngã xuống suối. Hai bà thay nhau chống sào, đưa bè nứa xuôi dòng sông Bứa, vượt thác Mơn, thác Chàng về cập bến Phố Vàng để đổi lấy gạo, muối và dầu hỏa, vải vóc, giấy bút... Có lúc tên nhà văn Sao Mai ít thấy xuất hiện trên văn đàn, nhưng cái tên công dân Tân Khải Minh thì là một điển hình làm ăn giỏi của xã Văn Luông, được cả huyện, cả tỉnh, rồi toàn quốc mời đi báo cáo trong các hội nghị, được đài báo đăng truyền khắp nơi.

Thực tế đời sống thôi thúc ngòi bút. Bà hai vốn mê đắm văn chương. Bà cùng các con lợi dụng khe suối đầu nhà đắp một con đập tạo ra cái hồ nhỏ, mặt nước thả cá nuôi vịt, trên bờ trồng nhãn, vải và trồng mướp tạo sắc hoa vàng, rồi dựng một nhà sàn nhỏ đặt tên là “Vọng ngư lầu” để nhà văn ngồi sáng tác. Thế là bắt đầu một thời kỳ viết đầy cảm hứng: Ba Vì núi mớiLàng CaoSông rừngTìm đấtXanh mãi con đường... của Sao Mai lần lượt ra đời trên vùng đất mới.



Nhà văn Sao Mai với các văn nghệ sĩ Phú Thọ tại Sa Pa năm 2004

Cho đến khi ông ra làm việc ở Hội Văn nghệ tỉnh thì đến lúc này coi như chấm dứt thời kỳ bĩ cực, chuyển sang một chương mới. 12 người con của ông đều đã trưởng thành. Các anh con trai, anh từ chiến trường về, anh tốt nghiệp đại học, đều có công ăn việc làm ổn định, 5 anh trở thành đảng viên, 3 anh làm rể xứ Mường. 12 ngôi nhà lầu đồng loạt mọc lên. Xóm mới Sao Mai rộng hàng chục héc-ta nối dài khắp các triền đồi, thung lũng, tạo thành một tổ hợp trang trại với ao cá, ruộng lúa, vườn vải, hồng, cam chanh và trùng điệp những đồi chè... Với tài văn và nhân cách sống vô tư gần gũi, nhà văn Sao Mai được tất cả mọi người yêu quý, không chỉ có các thế hệ văn nghệ sĩ, nhà báo cả nước, cả tỉnh, mà lãnh đạo tỉnh cũng luôn dành cho ông sự trân trọng quý mến đặc biệt.

Xuất phát từ sự quý trọng ông, những đóng góp của ông cho nên văn học nước nhà. Khi ở cương vị Chủ tịch hội, tôi đã chủ động phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức cuộc hội thảo quy mô quốc gia về văn chương và cuộc đời Sao Mai; một buổi lễ mừng thọ ông tuổi 80 cũng thật hoành tráng, rồi tiếp đó cũng với Hồng Chính chúng tôi đã sưu tầm tư liệu, các bài viết về ông. Biên soạn và xuất bản cuốn sách Sao Mai trong lòng bạn bè.

Chuyện về những người vợ của nhà văn Sao Mai

Ai cũng bảo ông Sao Mai là người lụy và khổ vì tình. Ngoài tình con người với nhau, thì cái làm ông khổ nhất ấy là tình ái. Chả hiểu sao, với cái tạng người mảnh khảnh, bồng bềnh mái tóc mà ông Sao Mai lại làm rất nhiều phụ nữ say đắm. Chả vậy mà “mới tý tuổi”, khi tham gia cách mạng, được bố trí về Nam Định dạy học và làm báo mà ông đã “bị” cô gái Hoàng Thị Tiếng, một thiếu nữ dáng cao sang, con nhà trâm anh thế phiệt lúc bấy giờ để ý. Mới đầu hơi mặc cảm giữa phận nghèo của mình với người giàu, nhưng vì lụy, vì nể tình quá nên ông đã yêu cô Tiếng. Đây là người vợ đầu của ông và cũng là người cam chịu với ông nhất. Không biết có phải vì lấy chồng sớm, đẻ con mau, gồng gánh một ông chồng dài lưng tốn vải và đàn con dại đã làm cho bà cả còm còi đến tận hôm nay. Bè bạn từng chòng ghẹo vợ chồng ông: con thì bằng lọ, vợ bằng chai/ chồng cứ gầy như chiếc gậy dài/ kháng chiến mấy lần toan vỡ lọ/ thế mà gậy cứ trực khua chai.

Rồi vợ đầu và ba đứa đầu mới trứng gà trứng vịt thì “đùng một cái”, ông lại bị “tiếng sét ái tình” nhằm mình phang tới. Lúc này, vì nghèo khó, để vợ con lại quê, ông đánh đường lên Hà Nội để viết văn, làm thơ kiếm sống. Thế rồi trong một lần về quê để tham gia xây dựng một đội chèo cho địa phương, ông lại “bị” người ta yêu. Mà người yêu ông lúc này lại là cô gái tên Loan (vợ hai sau này), mới có 15 tuổi thôi. Lại nể, lại lụy nên ông đã “bí mật” yêu lại cô. Rồi cả gan ông đã lặng lẽ đưa cô Loan lên Hà Nội sống với mình.

Ban đầu Sao Mai cứ lặng thinh, làm ngơ. Nhưng khi bà cả đưa con lên giám sát thì không thể giấu được người vợ hai nữa, ông đành đưa vợ hai về ra mắt vợ cả. Cơn thịnh nộ theo kiểu cho có lệ của bà vợ đầu Hoàng Thị Tiếng, rồi cũng qua đi. Vợ cả, vợ hai nhận nhau làm chị em như một sự chấp nhận và tha thứ. 2 vợ, 7 con chỉ trông chờ vào tài viết của ông, dù có lao động đến hết mình nhưng đại gia đình của ông Sao Mai vẫn nghèo khó, thậm chí là đói dài. Lại thêm tính ngay thẳng nên ông khó có cơ hội để thoát nghèo. Thế rồi theo chủ trương khai hoang vùng kinh tế mới của Đảng hồi ấy, không nề hà, để cứu gia đình, để “tạo ra cho mình những sự thoải mái”, ông Sao Mai đã nộp đơn và ký tên mình vào danh sách.

Cái miền đất Văn Luông, nơi định cư của người Mường, nằm bên con đường viễn lộ cổ xưa lên Tây Bắc ngày ông Sao Mai lên âm u tù hãm lắm. Thế nhưng, ông Sao Mai và hai bà vợ cũng như các cánh con đã nhanh chóng thích nghi. Ăn đói, nhịn khát để làm nương, làm rẫy và xây dựng cơ ngơi, đại gia đình của ông ai cũng hối hả. Thời gian này, để có cái kiếm thêm tiền cho hai vợ nuôi con, ông Sao Mai cũng đã học cách làm men rượu của người Mường mang bán khắp nơi. Cứ vào phiên chợ tuần lại thấy ông nhà văn cao dỏng, trên vai là hai bịch men trong cái túi thổ cẩm tìm đến để rao bán. Cái tên Sao Mai đẹp đẽ là thế, từng một thời bị người đời và bạn văn đọc chệch đi thành ông “Sao Men”.

Yêu ông dù giai đoạn này đói nghèo, nheo nhóc vì con cái nhưng hai người vợ vẫn dành thời gian và dành phần thức ăn ngon nhất, đầy nhất để ông viết văn. Và cũng chính trong giai đoạn nghèo khó này lại là lúc ông Sao Mai sáng lên và viết ra được nhiều tác phẩm hay nhất. Từ chốn rừng xanh văn chương ông viết ra đã “thắp sáng” một miền rừng núi Thanh Sơn. Ông lại được mời ra công tác và được bầu làm Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Vĩnh Phú (nay là Phú Thọ). Lúc này ông đã 65 tuổi, có 11 con và một trang trại rộng ngút ngàn, không những chỉ để sống gia đình mà còn vươn lên bậc sang trọng so với nhiều người.

Nhưng như duyên số trời định, cái vòng “lao lý tình ái” vẫn không buông ông. Ra Việt Trì ông lại “phải lòng” một người phụ nữ kém ông đến gần 30 tuổi. Phải nói chị L cùng các con rất hiểu chuyện cũng yêu thương ông. Gần 15 năm ông đã sinh sống với người phụ nữ này, ngay từ khi mới bén duyên chuyện cũng đến tai hai bà vợ đã một đời lam lũ, cam nhịn để thực hiện trọn nghĩa vợ chồng với ông. Nhưng hai bà đã coi như chuyện bằng không, như một sự tự nhủ cho ông thỏa chí với phận giời ở những năm cuối đời.

Bước vào tuổi 80, lúc ông ốm nặng, hai bà vợ đã chủ động cùng con cháu ra thành phố đón và đưa ông về. Thêm năm năm thuốc thang, thức ngủ, hai chị em - hai người vợ ông lại nâng giấc và chăm chút ông mà không chút kêu ca gì. Nhà văn đa tài và đa tình Sao Mai đã từ giã cõi đời năm 85 tuổi với 12 người con và 62 đứa cháu nội ngoại!

Nhà sáng tác Vũng Tàu, 11 tháng 11/2024

Đỗ Ngọc Dũng - Báo Văn nghệ