(Thứ tư, 01/06/2022, 04:44 GMT+7)
CỐ THƯỢNG TỌA THÍCH VIÊN THÀNH
 
Họ Phùng có một Tăng nhân
32 năm hạ lưu ân Tổ Ngài
Thượng tọa Thích Viên Thành tài
Họ Phùng ẩn tích đẳng đai anh hào…
Tên Ngải là Phùng Xuân Đào
Trung ương Phật giáo tự hào Việt Nam
Phật sự tu học Bảo Tam
Viện chủ Hương Tích trời Nam Phật Đài.
Thiếu thời Sứ giả Như Lai
Từ Bi trí mẫn sánh vai Di Đà
Hóa thân chuyển thế xuất gia
Ban trái hạnh phúc vị tha giúp đời…
Lòng từ Thầy tỏa muôn nơi
Gương sáng mẫu mực nụ cười từ dung
Sinh hạ Thượng Cát họ Phùng
Trọn vẹn Phật Pháp bao dung đạo đời…
Truyền Thừa Áo Vải thảnh thơi
Như Lai khoác áo cuộc đời chân Tu
Họ Phùng trí tuệ lãng du
Thượng tọa Chân Nhẫn Thiện Từ Độ Sinh…
 
(Phùng Quang Trung, CCB Bộ VH, có duyên thăm lại Chốn Tổ Hương Tích
được chiêm bái cố Thượng tọa Thích Viên Thành, 1/6/2022)




HÒA THƯỢNG THÍCH VIÊN THÀNH
(1950-2002)



Hòa thượng Thích Viên Thành, thế danh Phùng Xuân Đào, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1950 (mồng 1 tháng 6 Canh Dần) tại làng Thượng Cát, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Thân phụ là cụ ông Phùng Xuân Chỉ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Thìn.
 
Khi ngài chưa tròn một tuổi thì thân phụ đã sớm quy Tây, ngài chỉ còn dựa vào tình thương yêu của thân mẫu và sự đùm bọc của bà nội cùng bà con lối xóm. Từng bước, cảnh sinh ly tử biệt ấy đã làm cho ngài sớm nhận ra lẽ vô thường của kiếp người, noi gương hai người cô ruột là sư cụ Đàm Mậu và sư cụ Đàm Ngọ, trụ trì chùa Bi, tỉnh Vĩnh Phúc, ngài quyết xuất gia cầu đạo vào năm 12 tuổi. Năm 15 tuổi, ngài được Sư tổ Thích Thanh Chân, động chủ Hương Tích, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, thu nhận làm đệ tử.
 
Năm mười chín tuổi, ngài được Hòa thượng bản sư cho thụ giới Sa di. Sau khi thụ giới Sa di, ngài càng tỏ ra tinh tiến hành đạo nên năm 1972, ngài được đăng đàn thụ Cụ túc, viên mãn Tam đàn giới pháp taị Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Hà Sơn Bình.
 
Nhận thấy ngài có chí cầu học, siêng năng đèn sách, Hòa thượng bản sư kỳ vọng ngài sẽ là Pháp khí trong đạo sau này, nên đã cho phép ngài xuống núi, theo học lớp Trung cấp Phật học tại chùa Quảng Bá và Quán Sứ - Hà Nội, niên khóa 1973-1976. Trong thời gian theo học tại chùa Quán Sứ, ngài không những xuất sắc về mặt học vấn mà còn tinh nghiêm về mặt giới luật nên khi tốt nghiệp, được Giáo hội tuyển chọn vào Trường Cao cấp Phật học Việt Nam (nay là Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội) Khóa I, niên khóa 1981-1985.
 
Năm 1985, tốt nghiệp Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, ngài trở về chốn tổ phụng sự Tam bảo và bắt đầu dấn thân vào con đường hoằng dương Phật pháp.
 
Sau khi rời ghế nhà trường Phật học, ngài nguyện làm sứ giả của Như Lai, đem ánh sáng từ bi và giác ngộ của đức Phật thắp sáng thế gian này bằng tinh thần vô uý vị tha. Ngài luôn quan tâm đến việc đào tạo, giáo dục thế hệ Tăng ni trẻ, coi đó là việc báo đáp thâm ân của chư Phật một cách thiết thực nhất. Vì vậy, ngoài việc tiếp tăng độ chúng, ngài cón làm giảng sư của Trường Trung cấp Phật học cũng như Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội.
 
Năm 1984, ngay khi còn theo học Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, đáp lời thỉnh cầu tha thiết của chính quyền và nhân dân địa phương, Hòa thượng về nhận chùa Thầy - Thánh tích của Ngài Từ Đạo Hạnh.
 
Năm 1985, với giới đức trang nghiêm và hạnh nguyện từ bi vô ngại, ngài đã được Sư tổ, tức Hòa thượng Thích Thanh Chân, tin tưởng trao truyền kế đăng Động chủ Hương Tích.
 
Năm 1987, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Việt Nam toàn quốc kỳ III, ngài được tấn phong giáo phẩm Thượng tọa và được suy cử vào Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
 
Tại Đại hội kỳ III Tỉnh hội Phật giáo Hà Tây, ngài được bầu là Phó Ban Trị sự, kiêm Chánh Thư ký Tỉnh hội.
 
Để tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức, năm 1991, ngài đã cùng Chư tôn đức trong Ban Trị sự thành lập Trường Trung cấp Phật học tỉnh Hà Tây và ngài được giao trọng trách làm Phó Hiệu trưởng Thường trực của trường.
 
Trong các Đại giới đàn được tổ chức tại Hà Tây, ngài đều được cung thỉnh làm Thầy Tôn chứng và Thầy Yết ma.
 
 
Năm 1993, ngài được bầu làm Ủy viên Thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đồng thời làm Phó Ban Từ thiện Trung ương và Ủy viên Ban Hoằng pháp Trung ương.
 
Năm 1998, chùa Thầy được chọn làm Đạo tràng An cư kiết hạ của tỉnh Hà Tây, Hòa thượng được suy tôn ngôi Đường chủ của trường hạ cho đến khi viên tịch.
 
Từ năm 1998, ngài được suy cử chức vụ Phó Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng Ban Trị sự tỉnh Phú Thọ.
 
Để báo đáp công ơn Thầy tổ và trang nghiêm ngôi Tam bảo, cùng với cương vị trụ trì chùa Hương, ngài đã đảm nhận chức vụ Trưởng Ban Xây dựng và tôn tạo chùa Hương vào tháng 3 năm 1989 (năm 1947 chùa Thiên Trù đã bị giặc Pháp phá huỷ hoàn toàn). Ngài đã cùng với các cơ quan hữu quan, Phật tử và nhân dân địa phương trùng tu ngôi Đại hùng bảo điện, Tổ đường, Hương Thủy điện, v.v… Chỉ hơn 10 năm, quần thể di tích danh lam chùa Hương được uy nghiêm tráng lệ như ngày nay phần lớn là nhờ công sức của ngài.
 
Ngài còn kiêm nhiệm trụ trì chùa Thầy, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Nơi đây, Hòa thượng đã tu bổ nhiều hạng mục công trình, duy trì phát triển Thánh tích chùa Thầy ngày một trang nghiêm hơn. Cũng chính nơi đây với tâm nguyện hành trì Mật giáo, ngài đã khơi sáng lại ngọn đèn truyền thừa Mật tông vốn đã được khởi lập bởi đức Thánh tổ Từ Đạo Hạnh cách đây gần một nghìn năm về trước.
 
Tuy phải điều hành Phật sự tại hai đại danh lam là chùa Hương và chùa Thầy, lại nhận lĩnh các chức vụ của Phật giáo tỉnh nhà cũng như của Giáo hội, song ngài còn tích cực tham gia các hoạt động xã hội tại địa phương. Ở cương vị nào, ngài cũng đều tận tâm, tận lực nêu tấm gương tiêu biểu để tốt đạo đẹp đời. Ngài nhận lĩnh các công việc, các chức vụ chỉ vì lợi ích cho số đông, cho đồng bào và dân tộc. Ngài đã từng tham gia đại biểu Hội đồng Nhân dân xã Hương Sơn, Hội đồng Nhân dân huyện Mỹ Đức và từ năm 1994, ngài là Đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh khóa V, VI và VII. Vào đời bằng hạnh nguyện Bồ tát, ngài đã tham gia tích cực các công tác từ thiện xã hội để đem lại an lạc, hạnh phúc cho nhân sinh.
 
Do những công lao đóng góp cho đạo pháp và dân tộc, ngài đã được Nhà nước và Giáo hội tặng thưởng nhiều bằng khen và giấy khen như: Huân chương Lao động hạng ba, Huy chương Vì sự nghiệp Đại đoàn kết dân tộc, Huy chương Vì sự nghiệp bảo tồn văn hóa dân tộc, Huy chương Vì sự nghiệp nhân đạo,…
 
Với sở học và giới đức trang nghiêm, từ bi vô lượng, những tưởng ngài còn trụ thế lâu hơn để hướng dẫn Tăng ni và Phật tử trên con đường tìm về bến giác, nào ngờ cơn bạo bệnh chợt đến, Hòa thượng thuận lẽ vô thường trả tấm thân tứ đại lại cho trần gian mộng ảo để trở về thế giới vô tung bất sinh bất diệt vào lúc 18 giờ 40 phút ngày 31 tháng 5 năm 2002 (tức ngày 20 tháng 4 năm Nhâm Ngọ), trụ thế năm 53 năm, hạ lạp 32 năm.
 
Năm mươi ba năm tuy ngắn ngủi, nhưng ngài đã sống một cách trọn vẹn, đầy ý nghĩa, đã hiến trọn cả cuộc đời cho đạo pháp, cho dân tộc. Hạnh nguyện vô ngã, vị tha của ngài luôn luôn là tấm gương sáng, là ngọn tuệ đăng chiếu soi cho Tăng ni, Phật tử hôm nay và mãi mãi về sau.


Thạc sĩ Phùng Quang Trung - Chánh Văn phòng Hội đồng họ Phùng Việt Nam đã có buổi đến thăm chùa Hương và chiêm bái cố Hòa thượng Thích Viên Thành. Sau đây là một số hình ảnh: