GS.TS Phùng Hữu Phú sinh ra và lớn lên trong một gia đình công nhân ở thành phốNam Định. Từ bao đời nay đất Nam Định đã nổi tiếng là một vùng "địa linh, nhân kiệt". Nơi đó là quê gốc của Lê Hoàn và là nơi phát tích của nhà Trần, một trong những triều đại lẫy lừng võ công hiển hách và góp phần to lớn vào việc khẳng định bản sắc và tầm vóc của nền văn hiến Đại Việt rực rỡ ở đầu kỷ nguyên độc lập tự chủ. Vùng đất ấy cũng là nơi xuất thân của nhiều bậc nhân tài anh kiệt, lương tướng năng thần lưu danh trong sử sách.
Phùng Hữu Phú đã sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương giàu truyền thống văn hiến và truyền thống đấu tranh yêu nước cách mạng như vậy, và dường như từ rất sớm truyền thống quê hương và gia đình đã thấm đẫm vào tâm tính, cốt cách con người ông.
Thời gian Phùng Hữu Phú cắp sách tới trường phổ thông là lúc quê hương Nam Định cùng nhân dân miền Bắc hồ hởi bắt tay xây dựng cuộc sống mới. Không khí hân hoan, nhộn nhịp của một trung tâm công nghiệp lớn nhất, nhì miền Bắc lúc đó và hình ảnh những người công nhân cần cù, sáng tạo của Nhà máy Liên hợp dệt nơi cha ông, một thợ điện bậc cao làm việc đã in vào tâm trí tuổi thơ của ông những ấn tượng mạnh mẽ với những hy vọng và hoài bão lớn lao, lãng mạn. Nhưng nơi thực sự mở ra trong cuộc đời ông những niềm đam mê, tri thức, tình yêu và hoài bão lớn lao chính là giảng đường Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Chàng trai thành Nam Phùng - Hữu Phú tựu trường, nhập học khoá 11, trở thành sinh viên của Khoa Lịch sử vào tháng 9.1966. Đó chính là lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đang trải qua những ngày tháng vô cùng ác liệt. Các trường đại học, thầy và trò đều phải sơ tán về nông thôn, với quyết tâm dù khó khăn tới đâu cũng phải học tốt, đào tạo tốt, xứng đáng với cuộc kháng chiến quật cường của toàn dân tộc.
Từ tháng 8.1965, Khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội sơ tán về xã Vạn Thọ, huyện Đại Từ, tỉnh Bắc Thái. Lớp sinh viên năm thứ nhất của Khoa (G.11) dựng lán làm nơi ở và học tập cạnh Đầm Sủi, sát bên sườn núi đá. Trần Đức Cường, một bạn đồng môn của Phùng Hữu Phú nhớ lại: "Lớp chúng tôi thật vất vả. Lấy củi thì gần nhưng gánh gạo, gánh dầu lại xa. Vả lại xa khoa, xa thầy, xa dân, xa đường cái... ". Nhưng chính tại giảng đường lá nứa đơn sơ ấy Phùng Hữu Phú và các bạn ông đã lĩnh hội được từ những bậc thầy thông tuệ, đầy tâm huyết như Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, Lê Mậu Hãn, Phạm Thị Tâm, Vũ Dương Ninh… những tri thức, phương pháp khoa học và cả niềm đam mê học thuật đối với lịch sử dân tộc và lịch sử nhân loại. Chàng sinh viên Phùng Hữu Phú sớm nổi bật lên và được bạn bè quý mến ở đức tính chân thật, thẳng thắn, lối sống chân tình, cởi mở, giản dị, hoà đồng. Trong điều kiện hết sức khó khăn lúc đó Phùng Hữu Phú đã nỗ lực hết mình và có lẽ ông là một trong số rất ít sinh viên qua cả 4 năm học tập đều đạt điểm tối đa ở tất cả các môn (điểm 5/5). Được nhiều thầy cô quý mến bởi sự cần cù, thông minh, khiêm tốn, say mê học tập. Nhưng có lẽ 3 người thầy đã ảnh hưởng rõ nhất tới định hướng chuyên môn, tình yêu nghề nghiệp và lối sống, cách suy nghĩ và ứng xử của ông là GS. Đinh Xuân Lâm, GS. Phan Huy Lê và GS. Lê Mậu Hãn. Đặc biệt, năm cuối cùng Phùng Hữu Phú được theo thầy Lê Mậu Hãn, khi đó là giáo viên chủ nhiệm lớp G.11, đi thu thập tài liệu viết lịch sử Cách mạng tháng Tám ở vùng Căn cứ địa Việt Bắc và viết luận văn tốt nghiệp đại học về phong trào cách mạng huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. Nhiều năm sau ông nhớ lại, ông viết: "Với tôi, trước sau, Nhà giáo nhân dân Lê Mậu Hãn luôn là tấm gương sáng về tâm huyết, trách nhiệm và sự tận tuỵ đối với sự nghiệp chung, với cuộc đời, với con người. Thầy tôi nghĩ gì, làm gì, nói gì, viết gì đều phát xuất từ một tâm nguyện: làm sao cho đất nước mình, dân tộc mình, Đảng mình, xã hội mình mạnh hơn, đẹp hơn; sao cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo phát triển bền vững hơn; sao cho các thế hệ học trò bước vào đời giàu bản lĩnh, phẩm chất, trí tuệ để giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của ông cha..." Đó là gương sáng của bậc thầy và cũng là phương châm phấn đấu, là tâm nguyện hành xử cả đời của chính bản thân ông.
Ngay sau khi tốt nghiệp (1970), ông được Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội giữ lại làm cán bộ giảng dạy tại Bộ môn Lịch sử Việt Namcận - hiện đại thuộc Khoa Lịch sử. Cũng từ đó Phùng Hữu Phú khởi đầu sự nghiệp làm một thầy giáo và một nhà sử học chuyên nghiệp.
Tính đến hôm nay thầy giáo Phùng Hữu Phú đã có 36 năm đứng trên bục giảng tại Khoa Lịch sử và tại giảng đường của nhiều trường đại học ở trong nước và nước ngoài. Có lẽ đối với ông đó là một trong những niềm hạnh phúc lớn lao nhất. Thầy Phú là người được nhiều thế hệ học trò kính phục, tin yêu và rất quý mến theo những cách thức khác nhau. Họ kính phục thầy vì từ thầy họ tiếp nhận được không chỉ tri thức và phương pháp khoa học, mà cả niềm say mê học thuật, trách nhiệm nghề nghiệp và tâm huyết với dân tộc, với con người. Ai đã một lần được là học trò của thầy đều nhận thấy rằng tri thức, kinh nghiệm và phương pháp khoa học không chỉ được trao truyền mà đúng hơn, là lan toả từ thầy sang họ.
Với ý thức nghề nghiệp nghiêm túc, lại được gần gũi, kèm cặp bởi các bậc tôn sư đều là những nhà khoa học lớn, ngay từ khi khởi nghiệp làm nghề dạy học thầy Phùng Hữu Phú đã chú tâm tới công tác nghiên cứu khoa học. Với thầy, lao động học thuật nghiêm túc vừa là "tấm thẻ căn cước" xác nhận và đảm bảo cho tư cách và vị thế người thầy trên giảng đường đại học, lại vừa là niềm đam mê, khao khát tự thân. Thầy thường căn dặn học trò: đối với nghiên cứu sử học trước hết và cần nhất là lòng say mê, dẫu có thông minh đến đâu, nhưng thiếu lòng say mê và tính cần cù, nghiêm túc thì nhất định không thể trở thành nhà sử học thực thụ, tài năng. Học trò đến "thỉnh giáo" "sư phụ" Phùng Hữu Phú thường được "trao truyền tâm ấn" như thế... và kèm theo đôi ba chén rượu do tự tay thầy rót cho.
Dường như là một mối duyên nợ với quê hương, gia đình mà ngay từ đầu Phùng Hữu Phú đã chọn lịch sử hiện đại Việt Nam, lịch sử cách mạng Việt Nam và nhất là lịch sử đội ngũ và phong trào công nhân làm hướng nghiên cứu chuyên sâu thứ nhất của mình. Cùng với học trò và đồng nghiệp ông tiến hành nhiều đợt khảo sát về đội ngũ công nhân Nam Định, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Trên cơ sở của nhiều đợt khảo sát thực tế công phu, những nghiên cứu của Phùng Hữu Phú đã bổ sung nhiều nhận thức mới, cập nhật những thông tin về đội ngũ giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ "chắc tay búa, tay súng", xây dựng CNXH ở miền Bắc góp phần vào cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Chính từ góc nhìn hiện đại, nghiên cứu của ông cũng bổ sung thêm một số luận điểm có tính lý luận đối với nghiên cứu lịch sử phong trào công nhân thời cận đại. Hơn nữa, trong khi nghiên cứu về đội ngũ và phong trào công nhân, Phùng Hữu Phú luôn luôn đặt nó trong mối liên hệ máu thịt với giai cấp nông dân và trong bối cảnh chung của phong trào yêu nước, cách mạng Việt Nam. Đó chính là cơ sở ban đầu, rất quan trọng để ông nâng cao và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ chuyên ngành lịch sử - chủ nghĩa xã hội khoa học vào năm 1983 tại Trường Đại học Tổng hợp Lômônôxốp danh tiếng.
Trở về nước, Phùng Hữu Phú lại tiếp tục sự nghiệp giảng dạy và nghiên cứu lịch sử tại Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Xuất phát từ yêu cầu khách quan của nền sử học Việt Nam và nhất là của thực tiễn cách mạng, ông lại đi tiên phong trong việc mở ra những nghiên cứu liên ngành về những biến đổi kinh tế - xã hội đang diễn ra với nhiều vấn đề nan giải ở cả miền Bắc và miền Nam. Cùng với học trò và đồng nghiệp ở các cơ quan nghiên cứu khác nhau ông lại lăn lộn trong nhiều đợt khảo sát thực tế ở các trung tâm công nghiệp, các vùng nông thôn, kể cả vùng nông thôn miền Trung và Nam Bộ. Trên cơ sở đó, ông góp phần cùng với các cơ quan nghiên cứu và lý luận ở Trung ương kịp thời đánh giá, tổng kết, xây dựng luận cứ khoa học cho những quyết sách kịp thời của Đảng và Chính phủ, đặc biệt là việc tổng kết hợp tác hoá nông nghiệp phục vụ cho Đại hội VII của Đảng.
Cũng trong bối cảnh của công cuộc đổi mới được khởi đầu từ Đại hội VI của Đảng, Phùng Hữu Phú đã sớm quan tâm đi sâu nghiên cứu một loạt vấn đề về hệ thống chính trị Việt Nam hiện đại và về tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhiều học trò và đồng nghiệp được ông gợi ý, hướng dẫn cũng đi theo hướng nghiên cứu này. Giờ đây ngày càng xuất hiện nhiều hơn các nghiên cứu của giới học giả Việt Nam về nhà nước pháp quyền, hệ thống chính trị Việt Nam và về tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngay từ cuối những năm 80 - đầu những năm 90 của thế kỷ trước, ông đã chú tâm đến những vấn đề trên. Đặc biệt, khi nghiên cứu về nhà nước cách mạng Việt Nam, ông luôn luôn xem xét nó trong xu thế phát triển và đặt nó trong mối liên hệ hữu cơ với những thiết chế chính trị - xã hội khác, nhất là với các cơ quan dân cử và với mặt trận dân tộc thống nhất. Khi nghiên cứu về cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí Minh, ông là một trong những người đầu tiên đã đặt vấn đề tìm hiểu sâu sắc những luận điểm của Người về đảng cầm quyền, về tư tưởng và chiến lược đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, về mối quan hệ giữa quyền uy chính trị và đạo đức cách mạng. Những khảo sát thực tế, những khám phá trong nghiên cứu như thế đã sớm khẳng định trên thực tế uy tín học thuật của Phùng Hữu Phú như là một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sử Việt Nam hiện đại, ngay từ khi ông còn khá trẻ. Cho đến nay Phùng Hữu Phú đã công bố khoảng 100 công trình khoa học, trong đó có nhiều chuyên khảo và công trình đồ sộ do ông chủ biên được giới học giả trong và ngoài nước đánh giá cao, như các công trình vềChiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh, về Mặt trận dân tộc thống nhất, Lịch sử Đảng bộ thành phố Hà Nội, về Liên minh công - nông. Hiện nay ông đang chủ trì một chương trình nghiên cứu khoa học liên ngành cấp Nhà nước về Thăng Long - Hà Nội, đồng thời vẫn sát sao chỉ đạo xây dựng và phát triển ngành khoa học chính trị hiện đại tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Là một nhà khoa học có uy tín lớn ở trong nước, Phùng Hữu Phú còn được giới học giả nước ngoài biết đến rộng rãi và đánh giá cao. Sau nhiều năm về nước công tác ông vẫn giữ quan hệ và trân trọng những tình cảm tốt đẹp với những đồng nghiệp, bạn bè ở Nga. Năm 1990, ông được mời tham dự Hội thảo khoa học quốc tế ở Trường Đại học Tổng hợp Passau (CHLB Đức) nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc - danh nhân văn hoá thế giới. Cho đến lúc đó, đây là hội thảo quốc tế lớn nhất về Hồ Chí Minh được tổ chức ở phương Tây. Phùng Hữu Phú đã có vinh dự được thay mặt đoàn đại biểu các nhà khoa học Việt Nam nổi hồi trống khai mạc Hội thảo. Bài tham luận của ông mang tên "Tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh công nông trong cách mạng Việt Nam" được nhiều nhà khoa học quốc tế quan tâm, đánh giá tốt. Sau đó, trên các cương vị công tác khác nhau, ông có nhiều dịp cùng làm việc với các nhà khoa học đến từ nhiều nước với những quan điểm học thuật, chính trị và văn hoá khác nhau. Thái độ thiện chí, cởi mở, nghiêm túc và tầm cao học thuật của ông luôn là cơ sở, là nhịp cầu đối thoại tin cậy giữa ông và nhiều nhà khoa học nước ngoài. Có những nhà khoa học lớn ở phương Tây như Giáo sư Bernhard Dahm (Đức), W.J. Duiker và David Wurfel (Mỹ), David G. Marr và Benedict T. Kervliet (Úc), Furuta Motoo (Nhật Bản)... đã coi ông như một người bạn thân thiết, tin cậy.
Là nhà giáo, nhà khoa học xuất sắc, nhưng Phùng Hữu Phú còn là một nhà quản lý, nhà lãnh đạo tài năng. Những ai ở gần ông từ "thuở hàn vi" đều có thể chứng thực rằng ông không ham muốn, không dự định dấn thân vào nghiệp quản lý, lãnh đạo. Ông muốn dành tất cả thời gian, trí tuệ và tâm huyết cho nghề dạy học, cho học trò và cho các công trình nghiên cứu, những khám phá học thuật. Nhưng chính vì tâm huyết với nghề làm thầy và với nghiệp sử học mà ông đã bước vào công tác quản lý từ khá sớm một cách tự nhiên. Là người chân thật, cởi mở, hoà đồng, giàu nhiệt huyết, ông tham gia công tác Đoàn, được bầu làm Bí thư Liên chi đoàn Khoa Lịch sử. Sau khi đi nghiên cứu sinh ở Liên Xô về nước, ông được cử làm Phó chủ nhiệm, rồi làm Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử Việt Nam cận hiện đại. Rồi cũng do uy tín chuyên môn và tâm huyết với nghề nghiệp, ông được cử làm Phó chủ nhiệm Khoa Lịch sử (1985) rồi Bí thư Đảng uỷ, Chủ nhiệm Khoa Lịch sử (1990). Phùng Hữu Phú đã khởi đầu sự nghiệp quản lý lãnh đạo từ chuyên môn, bằng chuyên môn và ở một cơ sở giảng dạy và nghiên cứu khoa học như vậy.
Năm 1992, Phùng Hữu Phú được bầu làm Bí thư Đảng uỷ, được cử kiêm giữ chức Phó hiệu trưởng Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ông tham gia quản lý, lãnh đạo Nhà trường đúng vào thời điểm ngôi trường danh tiếng này đang trải qua một thời kỳ khủng hoảng nội bộ. Lúc đó, cán bộ, giáo viên và sinh viên không ít người có tâm trạng thất vọng, thiếu tin tưởng, bức xúc. Trên cương vị Bí thư Đảng uỷ, với uy tín chuyên môn cao, phong cách dân chủ, chân tình, cởi mở, cùng với GS. Đào Trọng Thi - Hiệu trưởng và tập thể ban lãnh đạo mới, GS. Phùng Hữu Phú đã góp phần quan trọng vào việc khẩn trương khôi phục khối đoàn kết, ổn định và đưa Nhà trường tiếp tục tiến lên.
Năm 1993, Thủ tướng Chính phủ ký nghị định thành lập Đại học Quốc gia Hà Nội. Đây là một chủ trương đúng đắn nhằm tạo ra một trung tâm đào đạo và nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao, có sứ mệnh như đầu tàu tạo đà cho những chuyển biến đột phá về chất lượng của hệ thống các trường đại học Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong bối cảnh đẩy nhanh công cuộc hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Tuy vậy, không phải ngay từ lúc đầu chủ trương này đã được dư luận xã hội, các cơ quan hữu quan và ngay cả một bộ phận không nhỏ của cán bộ, đảng viên của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và các trường thành viên trước đây thấu hiểu và ủng hộ. Với cương vị là Bí thư Đảng uỷ Đại học Quốc gia Hà Nội, GS. Phùng Hữu Phú đã đem hết tài năng và nhiệt tình của mình góp phần vào việc xây dựng và củng cố ĐHQGHN ngay từ những ngày đầu tiên, đặc biệt là xây dựng khối đoàn kết, nhất trí cao trong đảng bộ và tập thể lãnh đạo.
Năm 1995, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc ĐHQGHN được thành lập và GS. Phùng Hữu Phú được cử làm Hiệu trưởng đầu tiên. Cùng với tập thể Đảng uỷ và Ban giám hiệu ông sớm vạch ra phương hướng chiến lược xây dựng và phát triển Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành một trung tâm đào tạo và nghiên cứu hàng đầu của cả nước với những bước đi chắc chắn nhưng không kém phần năng động, đột phá. Sau 10 năm xây dựng và phát triển, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ngày càng trở nên vững mạnh, kế tục xứng đáng truyền thống vẻ vang của Trường Đại học Văn Khoa, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và thực sự trở thành một trường đại học thành viên tiên tiến xuất sắc của ĐHQGHN. Năm 2005, Trường đã vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới. Với tư cách là Hiệu trưởng đầu tiên, GS. Phùng Hữu Phú thực sự đã góp phần quan trọng vào thành tích chung của cán bộ, giáo viên và sinh viên của Nhà trường.
Trong thời gian làm Bí thư Đảng uỷ ĐHQGHN, kiêm Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, GS. Phùng Hữu Phú còn được Đảng bộ thành phố Hà Nội tin tưởng, tín nhiệm trao cho nhiều công tác quan trọng. Từ năm 1998, ông được Thành uỷ Hà Nội cử giữ chức Trưởng ban Tuyên giáo, kiêm Trưởng ban Đại học. Từ năm 2001, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) và được cử giữ chức Phó bí thư thường trực Thành uỷ Hà Nội, kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố.
Cương vị và công tác lãnh đạo của ông ở Thành uỷ và Hội đồng Nhân dân Thành phố Hà Nội cũng vẫn gắn chặt với "sân" chuyên môn mà ông say mê học tập và nghiên cứu cả đời. Hơn nữa, ông lại là một cán bộ lãnh đạo luôn luôn lăn lộn với thực tiễn, luôn chú ý và nghiêm túc lắng nghe và học hỏi nhân dân, đồng chí, đồng nghiệp. Vì vậy, mỗi ý kiến, mỗi việc ông làm, từng bài phát biểu đều giàu tính trí tuệ nhân văn, vững vàng, sâu sắc mà vẫn dung dị, rất đời thường. Cán bộ, đảng viên và nhân dân thủ đô Hà Nội rất tin tưởng, quý mến ông vì những "tố chất" đó và vì thấy rõ ông là người cán bộ tận tụy, gần gũi hết lòng với công việc, luôn có ý thức đầy đủ phải cố gắng hết mình để góp phần xây dựng Hà Nội trở thành một thủ đô hiện đại, văn minh. Ông cũng luôn tự dặn mình phải cố gắng, nỗ lực nhiều hơn nữa để thật sự xứng đáng với quê hương, với ngôi trường nơi ông đã trưởng thành, xứng đáng với sự tin cậy và tình cảm trìu mến mà học trò, đồng nghiệp và nhân dân Hà Nội đã và đang dành cho ông. Trong con người ông, nhà giáo, nhà khoa học và người cán bộ Đảng mẫu mực luôn luôn hoà quyện nhuần nhuyễn để tạo nên nhân cách một người thầy, một nhà lãnh đạo có tâm và có tầm của thủ đô Hà Nội./.