Ở làng Đường Lâm hiện vẫn còn một tấm bia rất cổ và hiếm quý (niên đại: 1390) ghi lại sự tích từ thời cổ đại - thế kỷ thứ VIII - của vị Đại Vương là người làng, phù hợp với sự ghi chép trong bộ sách của triều đình nhà Trần cũng rất cổ (niên đại: 1312) - Việt điện u linh tập- nói về những điều linh dị mà hiện hữu về cùng một nhân vật, đồng thời là nhân thần: Phùng Hưng.
Cho tới nay ngày sinh của ông vẫn chưa rõ. Các sách chính sử như Đại Việt Sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục ghi ông mất năm 791, chỉ một thời gian ngắn sau khi giành được chính quyền. Một nguồn dã sử cho biết ông sinh ngày 25 tháng 11 năm 760 (tức 5/1/761) và mất ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (tức 13/9/802), thọ 41 tuổi.
Phùng Hưng có tên tự là Công Phấn, cháu 7 đời của Phùng Tói Cái - người đã từng vào trong cung vua Đường Cao Tổ, thời niên hiệu Vũ Đức (618-626) dự yến tiệc và làm quan lang ở đất Đường Lâm. Bố của Phùng Hưng là Phùng Hạp Khanh - một người hiền tài đức độ.
Bấy giờ là những tháng năm thuộc niên hiệu Đại Lịch của triều đại nhà Đường thống trị. Kẻ thay mặt vua nhà Đường cai quản nước Việt ở thời gian này là Cao Chính Bình, nguyên chân quan võ Đô uý châu Vũ Định (ở Tây Bắc), vì có công danh đánh lui các toán giặc cướp từ ngoài biển kéo vào, nên được vinh thăng làm chức đứng đầu cả Phủ đô hộ, đóng dinh trong toà "An Nam La thành", bên bờ sông Tô Lịch. Từ toà thành này, tân quan Cao Chính Bình đề ra tân chính sách bóc lột cực kì hà khắc của mình, khiến người Việt ở khắp nơi đều hết sức phẫn nộ.
Ngọn lửa căm hờn bọn thống trị ngoại bang lâu nay vẫn âm ỉ, bây giờ như có dầu đổ thêm, bùng lên dữ dội, trước hết là Đường Lâm, rồi từ Đường Lâm lan đi.
Ngọn cờ nghĩa giương cao trên miền đất đồi Đường Lâm, do chính Phùng Hưng khởi xướng. Danh hiệu tự xưng bây giờ là: Đô quân. Người em trai Phùng Hải sát cánh bên anh, danh hiệu là Đô bảo.
Cuộc khởi nghĩa do Phùng Hưng phát động nhận được sự hưởng ứng rộng rãi của nhân dân từ khắp các miền đất Giao châu. Thoạt đầu, anh em họ Phùng nổi dậy làm chủ Đường Lâm rồi nghĩa quân tiến lên đánh chiếm được cả một miền rộng lớn quanh vùng thuộc Phong Châu, xây dựng thành căn cứ chống giặc. Phùng Hưng xưng là Đô Quân; Phùng Hải xưng là Đô Bảo và Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng, chia quân đi trấn giữ những nơi hiểm yếu. Cao Chính Bình đem quân đi đàn áp nhưng chưa phân thắng bại. Tình hình diễn ra như vậy hơn 20 năm.
Được sự trợ giúp của người cùng làng có nhiều mưu lược là Đỗ Anh Hàn, tháng 4 năm Tân Mùi (791), Phùng Hưng từ chỗ cầm cự đã cùng các tướng lĩnh đem quân vây đánh thành Tống Bình. Quân của Phùng Hưng chia làm 5 đạo do các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần và chủ tướng Phùng Hưng tiến công vây thành.
Phần lớn các truyền thuyết đều kể rằng: Phùng Hưng nhận thấy lực lượng chưa thật đủ mạnh để đè bẹp quân địch, ông đã cùng các tướng tỏa đi xung quanh chiêu mộ thêm binh lính và sắm thêm vũ khí, còn việc vây thành được giao cho 3 người cháu gái họ Phùng, gọi Phùng Hưng bằng bác.
Cuộc chiến đấu sau đó diễn ra quyết liệt, quân Đường chết nhiều, Cao Chính Bình phải vào cố thủ trong thành, lo sợ cuối cùng bị ốm rồi chết. Phùng Hưng chiếm lĩnh thành trì và vào phủ Đô hộ, coi chính sự đất nước.
Bằng công lao và sự nghiệp lẫy lừng ở năm 791 ấy, người hào trưởng đất Đường Lâm trở thành nhân vật lịch sử anh hùng ở Thủ đô, thời tiền Thăng Long. Được người đương thời mến mộ, ông dược suy tôn là "Bố Cái Đại Vương".
Về danh hiệu này, vì hiểu nghĩa "Bố Cái" là "Cha Mẹ", sách Đại Việt sử ký toàn thư đã có câu viết - để giải thích là: "Con (Phùng Hưng, sau khi cha mẹ mất) tôn xưng (cha) là Bố Cáo Đại Vương. Tục gọi cha là Bố, mẹ là Cái cho nên lấy làm hiệu". Tuy nhiên, trong công trình Việt giám thông khảo tổng luận, sử thần Lê Tung lại gọi Phùng Hưng nguyên văn là "Phùng Bố Cái". Cấu trúc của cụm từ này cho thấy ở đây, nghĩa của "Bố" chính là: vua (Bua - Bố), và "Cái" là: Lớn. "Bố Cái", vậy, tiếng Nôm là "Vua Lớn", hoàn toàn tương đồng với "Đại Vương" trong tiếng Hán Việt.
Vì thế, điều quan trọng sau đây, được ghi vào trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục, là: "Dân chúng tôn (Phùng) Hưng làm Bố Cái Đại Vương" (chứ không phải là: con Phùng Hưng tôn xưng cha). Và việc Phùng Hưng được dân chúng suy tôn là "Vua Lớn", còn thấy rõ trong câu sử bút sau đây: "Vương thường hiển linh, dân cho là thần, mới làm đền thờ ở phía tây phủ đô hộ, tuế thời cúng tế". Sử cũ còn ghi chép rõ: ngôi đền thờ ấy, trên đất Hà Nội thời tiền Thăng Long, đến thời Lê, thuộc đất "phường Thịnh Quang".
Như vậy, từ chỗ là nhân vật lịch sử của Thăng Long Hà Nội, Phùng Hưng đã trở thành nhân thần linh thiêng của đất kinh kỳ - Thủ đô.
Theo chinhphu.vn